Nguyễn Đình Lạp (1) trong trào lưu văn học hiện thực thời 1941 - 1945

Đinh Thảo
Sinh quán: làng Bạch Mai, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (cũ), nay là khu Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Nguyễn Đình Lạp thuộc lớp người viết gắn bó với quê sinh bằng những bài báo mang chất liệu thời sự và hình thức phóng sự, ra đời vào giữa năm những 1930 - thời Mặt trận Dân chủ, như Chợ phiên đi tới đâu (1936), Thanh niên trụy lạc (1937), Từ ái tình đến hôn nhân (1938), Cường hào (1938)...
ndl-1710297549.jpg
Nguyễn Đình Lạp trong trào lưu văn học hiện thực thời 1941 - 1945 (Ảnh minh họa: Internet)

Những bài báo góp một cách nhìn phê phán đối với phong trào “vui vẻ trẻ trung” đang lây lan trong đời sống đô thị, qua đó chứng tỏ viết đã nhìn ra một hiểm họa về xã hội và đạo đức không chỉ đối với thanh niên mà là cả xã hội nói chung, trong xu thế đô thị hóa, dưới chế độ thuộc địa; nhất là khi phong trào cách mạng đang cần huy động sức mạnh của toàn dân, và trước hết là lớp người trẻ tuổi.

Từ những bài báo khách quan có tác động tích cực cho công tác tuyên truyền và giáo dục mà Đảng Cộng sản rất quan tâm trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Nguyễn Đình Lạp sẽ thâm nhập dần vào sinh hoạt văn học, rồi trở thành một cây bút có dấu ấn riêng trong trào lưu văn học hiện thực thời kỳ 1941-1945, qua hai thiên tiểu thuyết - phóng sự, hoặc phóng sự - tiểu thuyết có giá trị là Ngoại ô (1941) và Ngõ hẻm (1943); và với hai tác phẩm đó, Nguyễn Đình Lạp xứng đáng là một trong số người hiếm hoi, sau Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất Tố duy trì và chuyên canh một loại hình văn học, góp vào sự phong phú và đa dạng của gương mặt văn học Việt Nam hiện đại.

Như vậy là sau chặng đường làm báo ngắn ngủi, Nguyễn Đình Lạp ở tuổi 30, trong giai đoạn cuối của trào lưu văn học hiện thực trước 1945. Một nhà văn biết cách đem lại cho đời sống văn học dấu ấn về một mảng sống riêng, một hệ chân dung riêng, một cách cảm nhận riêng về sự sống.

Ngoại ô Ngõ hẻm - hai tác phẩm mà ngay tên gọi đã gần như ôm trọn nội dung; hai tên sách giống như hai mái của một ngôi nhà, chụm vào nhau, trong đó trú ngụ bao thân phận, số phận của những lớp người nghèo khổ. Tác giả kể với một giọng điệu trầm tĩnh, khách quan, và có thể là có chút “tự nhiên chủ nghĩa” về những mảnh đời, từng đoạn đời của người dân “ngõ hẻm”, “ngoại ô”. Từ Ngoại ô đến Ngõ hẻm là sự thu nhỏ dần và đi vào cận cảnh những cảnh ngộ và số phận của tầng lớp dân nghèo qua một gia đình; từ gia đình vợ chồng bác Vuông (Ngoại ô), chuyển sang gia đình con gái và con rể là Khuyên và Nhớn (Ngõ hẻm); cả hai là sự nối dài những kiếp sống “lầm than” như tên một tiểu thuyết của Lan Khai, hoặc “dưới đáy” như tên một vở kịch của Gorki; dẫu có bươn chải, xoay trở đến mấy vẫn không thể nào thoát ra khỏi hai tấm lưới: bần cùng hóatha hóa; cả hai cùng dồn con người vào cõi chết. Đó là chết đói; hoặc chết về nhân cách, về tinh thần, sa vào đấy thì con người sinh học có thể còn sống, nhưng con người với tính người, chất người coi như là đã chết.

Viết về tầng lớp dân nghèo thành thị, người có nhiều tác phẩm đặc sắc nhất và có thâm niên dài nhất trong văn học hiện đại - đó là Nguyên Hồng, kể từ Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu... trước 1945 đến bộ tiểu thuyết Của biển đồ sộ 4 tập trên 2000 trang trước khi qua đời.

Nhưng Hà Nội mới là miền đất phong phú chất liệu nhất cho sự miêu tả này qua nhiều cây bút hàng đầu của cả hai trào lưu hiện thực và lãng mạn. Đó là Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng. Là Nguyễn Tuân và Thạch Lam. Là Tam Lang và Trọng Lang. Là Nam Cao và Tô Hoài... Cùng với các tên tuổi trên còn phải nói đến Nguyễn Đình Lạp.

Đặc sắc và đóng góp của Nguyễn Đình Lạp đó là sự chuyên tâm hoặc chuyên canh cho thể loại phóng sự - tiểu thuyết, hoặc tiểu thuyết - phóng sự. Là sự kết hợp giữa sự thật của phóng sự và hư cấu của tiểu thuyết mà không gây nên cảm giác giả hoặc gượng, qua đó đem lại cho trào lưu hiện thực trước 1945 hai tác phẩm kết nối nhau trên sự khai thác chất liệu chính là đời sống tầng lớp dân nghèo ngoại ô Bạch Mai nơi tác giả sinh ra. Những mảnh đời, những cuộc đời tuy đã lùi sâu ngót hai phần ba thế kỷ, nhưng quả đâu đã hết hẳn bóng dáng, hình hài của nó chung quanh ta hôm nay; và về không gian lại rất gần gũi với chúng ta. Đó là Ô Cầu Dền, là xóm ả đào Vạn Thái, là dọc dài khu phố Bạch Mai theo trục xuôi từ Phố Huế nối với chợ Mơ mà tỏa rộng ra hai phía theo những con hẻm, ao chuôm và đồng ruộng, gò bãi, và lụp xụp những mái lều, những ngôi nhà ổ chuột...

Đến với Nguyễn Đình Lạp là đến với những tên người như: Vuông, Khuyên, Còi, Nhớn, Sẹo, Tin, Pháo, Phả, Bưởi, Cún Móm... Đến với những nghề - khó mà quan niệm đó là nghề - như hàng rong - buôn thúng bán mẹt, đồ tể, gánh nước thuê, canh sòng bạc, đâm thuê chém mướn, gái điếm, me tây, cô đầu... Khó nói đến cái gọi là nghề, hoặc một nghề nào là chính cho sự sống của lớp dân nghèo, thực chất và sâu xa vẫn là người nông dân bỏ đất, bỏ làng mà ra thành thị. Họ trôi dạt từ nhiều nơi, rồi trụ lại ở những nơi được gọi là đô thị - từ một phố huyện, đến một thị trấn, thị xã, hoặc ven thành phố; bởi khi đã rời quê, họ khó tìm ra nơi nào khác hơn cho sự mưu sinh, dẫu là một mưu sinh đầy nhọc nhằn, bấp bênh và rất lắm hiểm hoạ.

Đến với Ngoại ôNgõ hẻm là đến với những phận người, luôn luôn trên bờ vực của cái chết, trước hết là chết đói; và tiếp đó, hoặc liều chết mà kiếm ăn - như một đúc kết của Nam Cao. Có nghĩa là bên cạnh đó là cái chết về nhân phẩm. Bởi, để khỏi chết đói, họ phải khó tránh sự tha hóa - phải đào mả để ăn trộm vàng như Nhớn. Phải đâm chết người để bảo vệ mình như Khuyên. Phải trấn lột ngay cả mình vì con thiếu cơm, thiếu thuốc. Phải bỏ nhà mà đi trong vô vọng. Rồi lại quay trở về với thất vọng và tuyệt vọng... Nhưng có khác với nhiều bạn viết cùng thời, thế giới nhân vật Nguyễn Đình Lạp luôn đứng ở ranh giới mấp mé của sự hư hỏng chứ chưa thật sự đi vào con đường lưu manh hóa với những gương mặt siêu hạng như Chí Phèo hoặc Xuân tóc đỏ. Cũng không giống thế giới nhân vật Tô Hoài nơi một làng nghề thủ công, trong tàn lụi vẫn còn để lại chút dư vị của tình yêu hoặc của chất thơ trong những phong tục còn lưu lại từ lâu đời... Sa vào vực thẳm (như tên một truyện của Nguyên Hồng), nhưng họ vẫn tìm cách để ngoi lên, thế giới nhân vật của Nguyễn Đình Lạp còn là thế giới của những cưu mang, đùm bọc cho nhau, của những mơ ước mỏng manh và nhỏ nhoi, nói với chúng ta, vừa về những cay đắng, nhục nhằn của cuộc đời, vừa với khát vọng yêu thương và mong mỏi một cuộc sống phải được đổi thay.

Đây là thế giới nhân vật rồi sẽ chứng kiến hoặc thuộc vào con số hai triệu người chết đói vào mùa xuân - tháng Ba 1945; hoặc trong số hàng chục triệu người xuống đường phá kho thóc Nhật, cầm cờ đỏ sao vàng cướp chính quyền trên khắp cả nước trong cuộc Tổng khởi nghĩa vĩ đại vào mùa thu - tháng Tám 1945.

Như vậy là ở chặng cuối 1941-1945, đó là một chuyển động dữ dội đem lại một cuộc đổi đời cho dân tộc; và những biến đổi quan trọng cho đời sống văn học, trong đó có gương mặt riêng của Nguyễn Đình Lạp trong đội ngũ những Mạnh Phú Tư (1913-1959), Nam Cao (1915-1951), Nguyên Hồng (1918-1982), Bùi Hiển (1919-2009), Tô Hoài (1920-2014), Kim Lân (1921-2007) - những tên tuổi kết thúc Thế hệ Vàng của văn học Việt Nam hiện đại.

Sau 1945, Nguyễn Đình Lạp tham gia công tác đào tạo cho các khóa huấn luyện văn hóa kháng chiến ở vùng tự do Khu Bốn cũ. Rồi trở về hoạt động bí mật ở Hà Nội bị tạm chiếm. Mất ở tuổi 39, ông còn kịp viết một tập sách mỏng Chiếc va ly và một vài bản thảo phóng sự.

30/8/2013


(1) 1913 - 1952

GS Phong Lê