Hồi ức Tô Hoài: Dòng ký ức không cạn từ tuổi thơ cu Bưởi đến tuổi 80 (Phần 2 và hết)

Đọc tự truyện và hồi ký của Tô Hoài chúng ta còn thấy thêm một điều - dường như ở đây ông nói được nhiều hơn những gì mà ông từng kỳ vọng ở tiểu thuyết, ở những tác phẩm mà ông đã phải cất công đi tìm, đã phải rất khổ công trong lao động chữ nghĩa.
tohoai-0904-1759483428.jpg
Trong hồi ký, Tô Hoài khắc họa nhiều chân dung văn nghệ sĩ với những giai thoại sống động. Ảnh: Phụ nữ mới

Cố nhiên ông cũng đã được trả công xứng đáng cho lao động cực nhọc của mình trên nhiều trang, nhiều chương đoạn của Truyện Tây Bắc, Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ,... Những trang đói trong Mười năm. Những trang về thiên nhiên và phong tục trong Đảo hoang, Nhà Chủ,... Nhưng dường như ở khu vực hồi ký (và khu vực chân dung, ông viết về bạn bè, đồng nghiệp như trong Những gương mặt - 1988) bao khổ công và vất vả của lao động chữ nghĩa ông đã cho lặn hết vào trong, tựa như là nước chảy ra từ nguồn nước. Dường như ở hồi ức, sự sống cứ như là một thẩm thấu tự nhiên mà trong veo biến thành chất liệu nghệ thuật!

Tôi rút ra ý nghĩ này khi chợt cảm thấy cái Hà Nội sau Hiệp định Genève 1954 trong chộn rộn những lo toan; cái Hà Nội đầu những năm sáu mươi khi Tô Hoài được cử đi học Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc cùng với nhiều học viên khác, đến từ nhiều nguồn, với nhiều động cơ và tâm trạng khác nhau; và về sau là Hà Nội trong chống Mỹ mà Tô Hoài là tổ trưởng khu phố, người lo toan tất bật mọi việc từ dân phòng, canh gác, tuyển quân, bầu cử... tóm lại cái Hà Nội trong hồi ức Tô Hoài xem ra lại nói được nhiều điều đáng nói hơn, sinh động và hấp dẫn hơn nhiều trang khác trong các ký, truyện ngắn dài của Tô Hoài về Hà Nội, và ngoài Hà Nội.

Trở lại với đề tài Hà Nội, không thể không nói đến tiểu thuyết Mười năm (1958), trong bầu không khí đấu tranh tư tưởng chống Nhân văn - Giai phẩm, khi hòa bình được lập lại chỉ mới sau vài năm.

Mười năm, ấy là sự trở lại chính mảng sống quen thuộc của Tô Hoài trong dâm năm viết như chạy thi trước 1945. Có điều mới là, tất cả sự sống ấy nếu trước đây được trải ra hoặc thu nhỏ trong mấy chục truyện ngắn, vừa và dài, thì bây giờ được ông cho gom vào một bộ. Một điều mới nữa là, giữa hai lần sáng tạo này đã diễn ra Cách mạng tháng Tám, rồi Chiến thắng Điện Biên Phủ, và với khoảng cách ngót hai mươi năm. Tóm lại, những chuẩn bị cho Mười năm, trên mọi phương diện của vốn sống, tư liệu, cách nhìn và quan niệm nghệ thuật đáng ra phải là ở một tầm cao, vượt trội lên những gì ông đã viết.

Thế nhưng hiệu quả nghệ thuật của Mười năm trong sự chờ đợi của giới phê bình và công chúng bạn đọc đương thời lại không tương xứng.

Mười năm - từ 1935 đến 1945 là một thời gian dài. Lại là thời kỳ sôi động và dữ dội trong đời sống dân tộc và phong trào cách mạng. Chọn thời gian lịch sử đó - tương ứng với tuổi thanh niên hăng say hoạt động của bản thân, Tô Hoài muốn nói đến cuộc hành trình có tính quy luật của lịch sử - con đường dân tộc đi đến Cách mạng tháng Tám, trên bối cảnh mà ông quen thuộc nhất: vùng quê ngoại thành của ông.

du-lich-ngoai-thanh-ha-noi-8-1759483511.jpg
Ngoại thành Hà Nội – không gian quen thuộc trong Người ven thành và Quê nhà. Ảnh: Internet

Qua Mười năm, thấy rõ Tô Hoài chỉ thuận tay trong những gì ông đã sống, đã trải. Vượt ra khỏi những quen thuộc đó, để hướng tới những chân dung chiến sĩ cách mạng, những hoạt động công khai và bí mật của Việt Minh, những âm mưu và hoạt động của các lực lượng chính trị chi phối diễn biến thời cuộc, cuốn tiểu thuyết gặp rất nhiều khó khăn không dễ vượt qua. Giới hạn trong sinh hoạt có phần đơn điệu, quanh quẩn của một nhóm thanh niên ít học như Lê, Lạp, Trung, Nhàn, Ba..., mở rộng thêm chút nữa đến mấy nhà báo ở Tòa soạn Tin tức hoặc mấy nhân vật chính trị phạm dở người hoặc tơrôtxkít có điệu bộ kệch cỡm, lố lăng,... Tô Hoài chưa thể nói được điều gì quan trọng và cốt lõi về cách mạng. Rút lại, Mười năm vẫn chỉ sinh động ở những mảng sống của một vùng tơ cửi với buồn vui đời thường của họ; cái cuộc đời bỗng có lúc nhộn nhịp và sôi nổi hẳn lên với phong trào ái hữu, với các hoạt động học tập, tuyên truyền, đọc báo chí, rải truyền đơn, họp mít tinh... rồi bỗng xuội đi và tắt lặng trong một trận đói lớn. Đói - đó mới là những trang đặc sắc của Mười năm. Một vùng quê đói. Những phiên chợ đói. Những thân người, mặt người đói. Rồi những cái chết đói,... Đó là hiện thực quen thuộc có nhiều người biết; cũng đã có người viết; nhưng xoáy đến tận cùng những thương tâm và bi thảm của nó trong văn học, tôi nghĩ cũng chỉ mới thấy trong văn của Nguyên Hồng và Tô Hoài.

Bây giờ đọc lại Mười năm, thấy đó vẫn là một tiểu thuyết đáng nói trên cả hai mặt hay - dở của Tô Hoài. Soi sâu vào quá trình cách mạng hóa để giúp hiểu cách mạng là gì và như thế nào - câu hỏi đó Mười năm chưa trả lời được, bởi rõ ràng đó là mảng sống Tô Hoài chỉ mới thấp thoáng ở những mặt ngoài. Bịa đặt và hư cấu để bù đắp cho những chỗ yếu và thiếu đó, không phải là cách xử lý của Tô Hoài. Ông vẫn chỉ viết như ông đã viết trước đây, trong hình ảnh chị Hai Tâm với đôi vai trần nuột nà, mái tóc dài và mảnh yếm trắng lốp như cánh hoa nhài nở đêm; trong hình ảnh bác Cai Giất xử lý con ngựa xổng giữa đám quần chúng đang hăm hở nhìn vào như một sự kiện gì thật trọng đại; trong tình cảnh Lê trên từng chặng hành trình tuyển mộ đi cao su; và qua những mối tình của đám thanh niên làng Hạ,...

Đã năm mươi năm qua rồi - đọc lại Mười năm, tôi không quá khó chịu với cảnh Lạp và Nhàn “ăn nằm” với nhau giữa cơn đói đang cận kề cái chết, chỉ băn khoăn sự thật đó có thể diễn ra như thế được không? Tôi không trách nhà văn sao không nghiêm trang bàn về cách mạng, mà chi tiếc nhà văn đã để cho người đọc kỳ vọng vào mình quá nhiều. Tôi vẫn thấy ở đây những mặt mạnh của Tô Hoài, qua những chuyện đời bình thường và quen thuộc, tạo nên sự sống vĩnh cửu của làng quê; và những mặt yếu, ở nơi mà sự sống của ông chưa tới. Giá ông thu hẹp bớt ý định và đừng quá chú mục nhẹ nhắm vào một ý đồ quá lớn, như được ngụ ý trong chính cái tên Mười năm.

Nói gì thì nói, câu chuyện cũng đã trở thành lịch sử trong giòng chảy của thời gian. Nhắc lại để hiểu không chỉ về những gì được viết trong tiểu thuyết mà còn về cái thời nó ra đời. Những gì Tô Hoài chưa thực hiện được trong tiểu thuyết, ông đã làm và còn làm được trong khu vực hồi ký như đã kể ở trên và trong các chuyện cũ ghi lại, qua hai tập Chuyện cũ Hà Nội in lần đầu, năm 1986, tái bản và bổ sung năm 2004.

Đề tài Hà Nội trong một quá khứ sâu hơn cũng là câu chuyện Tô Hoài theo đuổi lâu dài. Từ Mười năm mà ngược lên Người ven thành (1972), Quê nhà (1980)... Mười năm như là sự gắn nối Quê người với Quê nhà - và là con đường Tô Hoài ngược dòng lịch sử. Lịch sử - đó cũng là một cảm hứng nổi đậm trong văn Tô Hoài, cùng song song với cảm hứng về những miền sâu của ký ức riêng tư. Dường như cùng với ngót nửa thế kỷ quảng canh trên các địa danh vùng cao, Tô Hoài vẫn đồng thời chuẩn bị cho mình sự thâm canh theo chiều sâu lịch sử, nhằm gắn nối quá khứ với hiện tại. Con người, như được thể hiện trong Người ven thành, trong Quê nhà, rồi trong Kẻ cướp Bến Bỏi (1996) - kể câu chuyện đám môn sinh Cao Bá Quát quyết trả mối thù cho thầy - theo Tô Hoài, đó là người Hà Nội, như một biểu tượng của dân tộc, và như một kế thừa không đứt đoạn với lịch sử. Khỏi phải nói đến sự dụng công của Tô Hoài trong nghiên cứu các thư tịch để cho cuộc sống đạt được khuôn mặt lịch sử, mà không tùy tiện, bịa đặt. Khỏi phải nói niềm ham say tìm kiếm sự gắn nối giữa cái chung và cái riêng để đạt được một hòa sắc độc đáo về cái chất “người ven thành”. Đọc Tô Hoài thấy rõ sự huy động tổng lực trí thức lịch sử, địa lý, phong tục,... Đọc Tô Hoài thấy con người luôn luôn là một sự cộng hưởng với thiên nhiên và lịch sử. Đọc Tô Hoài thấy ông viết thật dễ dàng nhưng không chút dễ dãi về tất cả những gì đến trong tầm quan sát và chú ý của ông. Và như thế, đến với Tô Hoài, ta chợt hiểu, đó mới chính là người lao động ráo riết về ngôn từ; là người khai thác tối ưu công suất của ngôn từ; là người thuộc số hiếm hoi có biệt tài trong thu gom và vận dụng cái vốn chữ tuyệt vời của cha ông.

GS. Phong Lê