Cụ Đặng Đức Cường được người ở quê quen gọi là cụ Thượng Cường, (do có hàm quan nhất phẩm), là "Thanh bạch tiên sinh". Cụ đậu cử nhân khoa Mậu Tý (1888) tại trường thi Hương Nam Định. Cụ đứng thứ 10 trong số 56 cử nhân đỗ khoa đó. Cụ được sơ bổ là Huấn đạo và trong vòng 18 năm đã thăng tiến tới chức Tổng đốc có hàm tòng nhất phẩm.
Sau khi đỗ cử nhân năm 1888, cụ làm tri huyện rồi tri phủ các phủ, huyện thuộc các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh.
Từ năm 1896 cụ lần lượt được cử làm Án sát tỉnh Bắc Ninh, Án sát Hà Nội (1902), Tuần phủ Thái Bình (năm 1904), Tổng đốc Hà Đông (1906), Tổng đốc Hưng Yên (từ 1907 đến 1912), Tổng đốc Bắc Ninh (từ 1913 đến 1916), Tổng đốc Hải Dương (từ 1917 đến 1921). Như vậy từ 1896 đến 1921, trong vòng 25 năm, cụ lần lượt kinh qua nhiều chức quan đầu tỉnh, đặc biệt trong đó có 5 lần đứng đầu (Tổng đốc, Tuần Phú) 5 tỉnh lớn ở Bắc Kỳ (Thái Bình, Hà Đông, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương). Cụ được triều đình ban cho hàm Thái từ thiếu bảo, Hiệp biện đại học sĩ và hàm quan tỏng nhất phẩm.
Khi làm Tổng đốc tỉnh Bắc Ninh (1913), cụ được Thông sứ Bắc Kỳ cử làm Hội viên Hội đông Bảo hộ Bắc Kỳ. Năm 1919, cụ được Toàn quyền Đông Dương cử làm Hội viên Hội đồng Chính phủ Trung ương.
Cụ về hưu ngày 16/2/1921 với lương hưu đồng niên là 857 đồng Đông Dương (tương đương 30 lạng vàng/năm).
Cụ là người tính tình nhã nhặn, cởi mở, nhân hậu dù có chức hàm cao thời đó. Cụ thương yêu các thuộc hạ và không nặng lời với một ai dù có phạm lỗi. Nếu có một tổng lý nào làm sai, cụ gọi lên văn phòng khuyên bảo để sau tránh các lỗi lầm tiếp. Nếu lỗi quá nặng, không thể tha thứ được thì cụ bảo người đó nên làm đơn từ chức. Cụ sẽ dựa theo đơn ra nghị định cho nghỉ việc để cứu vãn thể diện cho họ khi về quê khỏi mang tiếng bị cách chức mà tủi hỗ...
Suốt 32 năm làm quan, cụ không có một hành động hay một lời nói chạm đến lòng tự ái của người khác.
Cụ thường nói với người trong làng và bạn hữu của mình rằng, "Mình làm lớn, có phận lớn. Người ta làm nhỏ, có phận nhỏ. Ai thì cũng có lòng tự ái. Người nào mà lòng tự ái bị dày xéo là bị đau khổ. Vậy không nên làm điều gì, nói câu gì làm đau lòng người khác một cách vô ích".
Làm quan lớn nhưng cụ là người không chỉ có đức tính nhân hậu mà còn rất thanh liêm. Cụ không bao giờ đòi tiền lễ của các quan phủ, huyện hay của các tổng lý hay các người có công có việc muốn lên gặp quan lớn. Cụ cũng không bao giờ nhận quà của ai rồi mới thăng chức hoặc thưởng cho thuộc hạ.
Tổng lý hay các quan phủ, huyện do cụ tự ý đề nghị đê được thăng trật hay được thưởng hàm, nêu sau đó có đem quà đến tạ ơn cụ thì lúc bấy giờ cụ mới nhận một cách tượng trưng như để làm vừa lòng người đến tạ ơn mình khỏi suy nghĩ.
Với bản tính nhân hậu nên cụ đối xử với mọi người rất nhã nhặn và ôn hòa. Các quan chức người Pháp do thấy cụ khoan hòa với dân mà không hề xu nịnh mình. Từ đó, người Pháp cũng quý trọng cụ, một nhà nho chân chính. Trong khi bàn việc hàng tinh với các quan chánh, phó Công sứ người Pháp, cụ trình bày ý kiến một cách thẳng thắn với lời lẽ ôn tồn thuyết phục. Vì thế nên các phó, chánh Công sứ người Pháp cũng phải chịu và chấp nhận ý kiến cụ nêu.
Cụ làm quan nhiều chục năm vậy mà không bao giờ gặp trở ngại dù không biết và không chịu quy luy ai thì có lẽ cũng là chuyện lạ.
Xứ Bắc Kỳ có 5 tỉnh được triều đình coi là tinh lớn và được bổ chức quan Tổng đốc (tỉnh nhỏ thì chỉ là Tuần phủ) thì cụ cũng kinh qua 4 tỉnh làm chức Tổng đốc. Duy chỉ có Nam Định là cụ không làm cũng bởi vì quy định ngày đó: Không ai được làm quan đầu tinh tại quê nhà.
Cụ hay làm thơ chữ Hán cho nên vào mấy năm cuối thế kỷ XX, cụ cũng có tham dự mấy cuộc thi thơ của tỉnh Hưng Yên mà Trưởng ban giám khảo là cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến.
Cụ Đặng Đức Cường nhận làm Tiên chỉ làng Hành Thiện khi vẫn còn đương chức là thay cụ Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng cho đến lúc qua đời (1925). Thực ra, cụ được chọn làm Tiên chỉ làng trước cả cụ Đặng Xuân Bảng. Thế nhưng cụ không chịu nhận bởi cụ luôn coi cụ Đặng Xuân Bảng như bậc thầy của mình. Với quê hương Hành Thiện, cụ có nhiều công lao rất đáng ghi nhận. Năm 1913, nhà cầm quyền Pháp muốn triệt hạ làng Hành Thiện vì Pháp cho rằng ngôi làng này có nhiều người theo Phong trào Đông Du chống Pháp, có âm mưu ám sát các quan lại thân Pháp. Trước khi định triệt hạ làng, Pháp cho lập đồn lính khố xanh ở ngay đình làng. Toán lính khố xanh này do một viên thiếu uý Pháp chỉ huy cùng các nhân viên thuộc Ty Mật thám Nam Định. Chúng lùng bắt rất nhiều người mà chúng đã theo dỗi từ trước do tình nghi khoảng 20 người). Cụ Cường xin nhà cầm quyền Pháp đừng triệt họ làng mình. Cụ cũng cho các nhà cầm quyền Pháp biết rằng, người Hành Thiện vốn hăng hái theo phong trào Đông Du. Họ hoặc đã bị đồng đảng giết hoặc nay cũng đã đi Nhật Bản cả rồi. Những người bị bắt, theo cụ chỉ do tình nghi, đầu có bằng chứng để giết? Cụ đã đem thân mình cùng chức vụ Tổng đốc tỉnh Bắc Ninh ra đảm bảo và chịu trách nhiệm nếu che giầu. Cụ gửi đơn đề nghị trả tự do cho bà con dân làng bị bắt cũng như hành vi định đốt phá làng này của Pháp vì cho là có liên quan... Sau đó, đồn lính khổ xanh đã được giải tán khỏi làng và không một ai bị triệt hạ.
Năm 1921, cụ làm đơn xin Chính phủ cho mở trường Sơ học Pháp - Việt tại làng Hành Thiện. Trường công lập này được mở từ năm 1922. Đây cũng là ngôi trường đào tạo ra cho đất nước những nhà lành đạo cách mạng như cô Tông Bí thư Trường Chinh, cố Giáo sư Vũ Khiêu, Trường ban Khoa giáo Trung ương Đảng Đặng Quốc Bảo; cố Giáo sư Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam Đặng Xuân Kỳ, cố Giáo sư, Tiến sĩ, Bộ trưởng Y tế Đặng Hồi Xuân; nguyên Phó Chú tịch Quốc hội Đặng Quân Thuy, nguyên Bộ trưởng Công nghiệp Đặng Vũ Chư...
Đến năm 1924, cụ lấy tiền công quỹ của làng mà tiền này là có một phần do cụ đóng góp để xây một ngôi trường bằng gạch, ngói cạnh đình làng. Điều đặc biệt nữa ở cụ, đó là việc cụ đứng ra vận động xây dựng Quỹ học điền của làng. Chính cụ đã góp ruộng của cá nhân mình cùng tài chính của những ai có lòng hảo tâm rồi thuê người trông nom, thu hoạch. Sau đấy dùng tiền thu từ bán lúa đó đem hỗ trợ cho những trò nghèo hiếu học và học giỏi trong làng. Mục đích để họ có thêm chút tiền học lên, khỏi bỏ dở.
Sau cải cách ruộng đất 1953, ruộng này bị thu lại nên Quỹ học điên cũng không còn. Đến tận năm 2010, Quỹ Khuyên học Khuyên tài Hành Thiện mới được xây dựng, gọi là "phục hồi" truyền thống mà làng Hành Thiện vốn có từ trăm năm trước.
Vì cụ Đặng Đức Cường làm quan đến hàm nhất phẩm, lại có tiếng là vị quan thanh liêm, cần mẫn, nhân hậu cho nên thân sinh cụ, ông nội cụ và cụ nội cụ đều được Vua phong hàm tòng nhị phẩm, tòng tam phẩm, tòng tứ phẩm.
Có một điều cũng khá thú vị về nếp nhà gia phong của cụ từng được Vua ban tặng chữ "Thái tử thiếu bảo”. Đó là chuyện khi chắt nội của cụ sau này là nhà giáo Đặng Thị Phúc. Bà cũng có vinh dự được là cô giáo dạy cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lúc thiều thời. Năm 2019, cô Tông Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi thư cho cô giáo nhân dịp sắp Tết Nguyên đán Kỳ Hợi, người từng dạy dô mình nên người. Bức thư có những dòng chữ rất cảm động: "Em vẫn giữ mãi những kỳ niệm sâu sắc, không bạo giờ phai mà trong những năm tháng được cô dạy bảo..." (thư viết ngày 25/1/2019).
Có thể nói, mặc dù làm quan dưới thời thực dân, phong kiến, nhưng cụ Đặng Đức Cường vẫn giữ phẩm chất thanh liêm, công tâm của một người giữ trọng trách lo cho dân, một tấm gương đáng tự hào của người dân Nam Định và cho thế hệ sau học tập.
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi thư thăm cô giáo cũ góp phần giúp ông thành nhà lãnh đạo có uy tín mà cô giáo Đặng Thị Phúc chính là chắt nội cụ Đặng Đức Cường.
Tài liệu tham khảo:
- Đặng Xuân Viện (1974) - "Thành Thiện Xã chí" - xuất bản năm tại Sài Gòn.
- Đặng Hữu Thụ (1991) - "Làng Hành Thiện và các nhà nho Hành Thiện Triều Nguyễn" - tái bản tại Paris, Pháp.
- PGS, TSKH Nguyên Bích Đạt (2022) - "Hành Thiện quê ta một trời để nhớ" - Tác giả, NXB Hội Nhà Văn, HN.