Tô Hoài: Từ “O chuột” đến “Truyện Tây Bắc”, hành trình văn chương qua kháng chiến (Phần 2 và hết)

Sau Cách mạng tháng Tám, ngòi bút Tô Hoài mở ra hành trình mới, từ Truyện Tây Bắc đến Miền Tây, ghi dấu niềm tin vào đổi thay và sự sống của con người miền núi. Văn ông vừa tiếp nối truyền thống vừa khắc họa hiện thực, trở thành biểu tượng đặc sắc của văn xuôi kháng chiến.
to-hoai-d-zauj-1759482181.jpg
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài mang đến một diện mạo mới: Đồng cảm, rưng rưng xúc động và niềm tin vào cuộc sống. Ảnh: Báo Thanh niên

Vậy là một chu trình sống mới - cách mạng và kháng chiến đã vào văn Tô Hoài, ngót mười năm sau 1945, sau cái thế giới nhân vật đã quá quen thân với ông ở làng quê Nghĩa Đô - quê ngoại của ông. Vậy là, đã đến với ông không chỉ khoảng rộng mà còn là những tầm cao của đất nước và con người; để cùng với nó, bạn đọc dẫn dần nhận ra một Tô Hoài mới. Mới, không phải chỉ ở đề tài, mà còn cả trong bút pháp, giọng điệu. Sự chia sẻ, sự đồng cảm, những rưng rưng xúc động và những niềm vui tin đã làm ấm lên nhiều trang văn Tô Hoài.

Tôi nghĩ, đó là cái bổ sung, nếu không nói là thay đổi hình ảnh Tô Hoài trước năm 1945 với cái buồn có phần triền miên, đượm hoài nghi và chua chát vốn định hình từ rất sớm trong văn ông. Làm thay đổi được dấu ấn định hình đó phải có một lực xô đẩy rất lớn từ bên trong, chứ không thể chỉ bên ngoài mà được. Đọc Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, chúng ta tin thế. Không phải tin ở một giải thưởng được trao rất trúng. Mà ở những gì còn diễn ra về sau như một lực hấp dẫn tự nhiên. Trở lại cuộc sống thời bình sau năm 1954 ở Hà Nội vốn là địa bàn quen thuộc của ông, địa bàn rồi sẽ thôi thúc ông trở lại trong Mười năm (1958) với một mải miết đi tìm những khuôn hình cũ và những giá trị mới mà ông chưa thấy rõ hoặc tạm ngừng chưa viết được, Tô Hoài vẫn không nguôi nhớ Việt Bắc và Tây Bắc, nơi không chỉ lưu lại những kỷ niệm mà vẫn cứ là một lực hút, khiến ông rồi còn nhiều dịp trở lại. Theo dõi hành trình mới này của ông, thấy ghi: 1959 – trở lại châu Mộc, châu Thuận, Tuần Giáo, Sơn La, Lai Châu,... 1964 - lên Yên Ninh, Mèo Vạc, Đồng Văn, Hà Giang,... Và thế là, theo chân ông, mười năm sau Truyện Tây Bắc, lại tiếp tục dòng chảy của Lên Sùng Đô, Nhật ký vùng cao, Thào Mỵ kể đời mình, Quản Bạ mùa mưa, Những làng Dao trên Viễn Sơn... -

Nguồn mạch cũ được khơi lại này quả thật dạt dào. Những năm sáu mươi (thế kỷ trước), khi đất nước vừa trong âm hưởng say người của buổi đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa trong hào khí chống Mỹ cứu nước, Tô Hoài đã kịp thời đưa vào bức tranh chung của dân tộc những nét sống thật mới và cảm động của vùng cao. Ở đây, ông ghi nhận trước hết hình ảnh những con đường... Con đường - đó chính là dấu hiệu, là biểu tượng cho các đổi thay nơi vùng cao. Tô Hoài vốn sở trường về tả cảnh, cảnh rừng núi, sông suối, đất trời. Cảnh những phiên chợ. Và bây giờ có thêm con đường.

Với con đường, văn Tô Hoài gợi rất nhiều địa danh. Khó mà nhớ hết các địa danh trong văn Tô Hoài theo các cuộc đi. Nhưng dường như lúc nào cũng thế, những địa danh đều được sưởi ấm, vì đều có chút tình người trong đó.

Trở lên là Tô Hoài những năm sáu mươi, mười năm sau Truyện Tây Bắc, hai mươi năm sau những 0 chuột, Giăng thề, Quê người...

Những năm sáu mươi, văn xuôi miền Bắc tràn đầy chất trữ tình, chất thơ và đậm dần lên chất anh hùng ca. Bút ký Tô Hoài - nơi thể hiện tập trung chất thơ đó, cũng là một phương diện kết tinh đóng góp của Tô Hoài. Nhưng còn tiểu thuyết - đòi hỏi một phương thức mới, một tư duy mới trong phản ánh và khái quát hiện thực, một hiện thực đang đổi thay và luôn luôn biến động, đó quả là một mời gọi và thách thức lớn đối với Tô Hoài. Tiểu thuyết - trước một hiện thực đã định hình, hơn thế, còn như tù đọng - đó là Tô Hoài trước năm 1945. Hơn hai mươi năm sau, Tô Hoài lại đến với mục tiêu đó; với cùng lúc, những khó khăn lớn hơn, nhưng lại với quyết tâm cao hơn, trong Miền Tây (1967). Trước đây, Quê người cứ như tự nhiên mà có; còn bây giờ Miền Tây là biết bao sự chuẩn bị. Có thể nghĩ đấy là một trận đánh lớn cùng với rất nhiều trang bị, trong đó tuyệt không thể thiếu sự kiên tâm và chăm chỉ. Miền Tây - đó là sự tiếp nối và quy tụ các thành tựu đã có từ Truyện Tây Bắc và sau Truyện Tây Bắc, là cái hậu của Truyện Tây Bắc mà người viết tỏ ra rất tin tưởng vì đã có thêm nhiều năm đi - về các địa chỉ cũ như một quê hương thứ hai; và người - cảnh - sinh hoạt ở đây không chỉ để nhớ thương cho ông mà còn như cả một món nợ lòng. Miền Tây, hơn thế, còn là nơi ông gửi gắm niềm tin ở tương lai phát triển của hiện thực, ở những cái mới - xã hội chủ nghĩa đã tỏa rạng trên đời sống và khuôn mặt con người vùng cao.

image-1759482249.jpg
Nhân vật Nghĩa – anh bộ đội miền xuôi, mang tinh thần gắn kết cách mạng với đời sống dân tộc thiểu số. Ảnh minh họa. Nguồn: Báo Nhân dân

Miền Tây - vẫn chuyện của Tây Bắc, nhưng bây giờ là đối sánh đầy đặn giữa hai cuộc đời, với bản lề chia đôi là cách mạng. Là sự sống mà nhà văn muốn tạo dựng bằng chính hình ảnh chứ không phải chỉ bằng lời kể của một nhân chứng, và xúc động của người kể chuyện. Miền Tây, hơn mười năm sau Truyện Tây Bắc quả không phụ những gắng công và nỗ lực của Tô Hoài trong tái tạo những mảng tối về cuộc đời cũ qua số phận bà Giàng Súa và đàn con của bà. Miền Tây, thật đặc sắc trong chương mở đầu với hình ảnh đoàn ngựa của Khách Sìn thổ hàng buôn lên Phìn Sa; cùng với phiên chợ Phìn Sa. Đoàn ngựa thồ của chủ hàng họ Đèo mang theo cùng với hàng hóa là bao đau thương nhọc nhằn cho người dân miền núi trong tối tăm, cực khổ. Mang theo cùng với hàng hóa là bao oán thù mà hậu quả cuối cùng vẫn chỉ là người dân con sâu cái kiến gánh chịu. Đọc Miền Tây, ở phần đầu, thật tuyệt vời bút pháp khắc họa và tạo dựng khí hậu của Tô Hoài. Cảnh người ngựa nối đuôi nhau trong sương núi; cảnh dốc đèo hiểm trở của thiên nhiên hiện lên trong hoang rợn, bởi nó gắn bó, báo hiệu những lo âu, bất trắc, hiểm họa cho con người, cho cuộc đời. Một cái mở đầu thật là ám ảnh trên bức tranh đối sánh của lịch sử - mới và cũ, trước và sau, xưa và nay mà Tô Hoài muốn tạo dựng.

Cố nhiên Miền Tây còn những giá trị khác, nó là những chân dung, và số phận của con người trên nền lịch sử. Một số chân dung như thế đã xuất hiện với diện mạo riêng và số phận có bề dày. Đó là ba anh em Thào Nhìa, Thào Khay, Thào Mỹ, nó là nỗi khổ, nỗi đau và cũng là niềm vui của người mẹ Giàng Súa - người phụ nữ H'mông đã thành một biểu tượng đặc sắc trong văn Tô Hoài. Là thôn trưởng Pàng, chủ tịch Sóa Tỏa, ông già người Xá, chú bé Huổi Ca... Là Nghĩa, anh bộ đội miền xuôi mà Tô Hoài quả đã dồn nhiều tâm sức để dựng. Thế nhưng trong diễn biến khá nhanh gấp và bộn lên nhiều sự kiện của một cuộc đổi thay trên miền núi, dường như Tô Hoài đã đề ra quá nhiều yêu cầu, nhiều “luận đề” để nhẹ nhắm và chứng minh. Thành ra cái phần khắc họa và tạo dựng đầy hứa hẹn và rất ấn tượng ở đầu truyện bỗng có phần loãng nhạt đi cái sự sống cần được triển khai theo tư duy tiểu thuyết ở phần sau. Cuốn sách ít nhiều gây hẫng hụt và do thế mà chưa thật vươn tới tầm một tiểu thuyết lớn như người đọc ao ước. Lỗi không hoàn toàn ở các ý đồ nhẹ nhắm, mà là ở cái phần sống hiện tại và tương lai của nhân vật vẫn chưa kịp chuyển thành chất liệu nghệ thuật trong văn Tô Hoài. Miền Tây được một giải thưởng quý - Giải thưởng Hội Nhà văn Á - Phi năm 1972, quả là xứng đáng với công sức, tâm huyết của Tô Hoài; nhưng hiệu quả nghệ thuật đích thực còn chưa ngang tầm với kỳ vọng của người đọc đối với tác giả Truyện Tây Bắc trong khoảng cách hơn mười năm sau.

Đề tài vùng cao Tô Hoài vẫn còn tiếp tục sau Miền Tây, với Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971), cho đến Họ Giàng ở Phìn Sa (1984), Nhớ Mai Châu (1988). Rõ ràng nhà văn vẫn theo đuổi nó với một kiên nhẫn và hứng thú không nản mỏi; trong khi nhiều cây bút người Kinh khác đã bỏ cuộc, và nhiều cây bút dân tộc lớp lớp đã trưởng thành. Dường như vẫn khắc khoải trong ông niềm mong muốn giải đáp những bí ẩn nào đó nơi mảnh đất biên cương dẫu xa xôi mà vẫn gắn rất sâu với cộng đồng dân tộc. Lúc thì Tô Hoài tập trung ánh sáng cho sự soi chiếu một chân dung người thực là người chiến sĩ cộng sản Hoàng Văn Thụ để có một minh chứng thật sự có sức thuyết phục cho con đường cách mạng hóa - trên vùng đất biên cương vốn là căn cứ địa của cách mạng. Lúc thì trải dài sự theo dõi theo lịch sử một họ Giàng, qua bao biến động của cách mạng, vẫn chỉ đi - về trên một điểm hẹn: Phìn Sa... Không dừng lại ở Truyện Tây Bắc, Tô Hoài đã có Miền Tây; không dừng lại ở Miền Tây, ông vẫn mải miết, kiên tâm trên một hành trình dường như lúc nào cũng có một cái đích quan trọng phía trước, bất kể sự đón đợi của công chúng là vô vập hay lạnh nhạt. Tính đến Nhớ Mai Châu, cuốn sách trở lại chất liệu xứ Mường thời kỳ đầu cách mạng, trong giành giật xâu xé nhau giữa Pháp - Nhật và Tàu Tưởng để biến mảnh đất này thành căn cứ địa phản động xuyên Á - Tô Hoài đã có chẵn 40 năm chung thủy với một đề tài. Sau Nhớ Mai Châu, không chỉ là cuốn sách duy nhất Tô Hoài phải nhận sự thờ ơ của người đọc - bởi thời thượng văn học luôn thay đổi, nhất là khi đất nước đang dưới sức ép của chế độ bao cấp bỗng chuyển sang nền kinh tế thị trường; chúng ta không tin là Tô Hoài đã cạn vốn. Với Tô Hoài, hình như lúc nào ông cũng có vốn, không chỉ là vốn tích lũy mà là vốn tái sinh, để có thể “tiêu pha” rủng rỉnh, hoặc “khai trương” một lúc nhiều mặt hàng. Không phải cạn vốn, mà hình như từ sau 1975 - cho đến nửa đầu những năm chín mươi, quỹ thời gian đã buộc ông phải tính toán, để chuyển dần cảm hứng viết sang một mạch nguồn khác - mạch của hồi ức, của chân dung và kỷ niệm, cùng là mạch của lịch sử gắn với miền quê “cũ” - ruột thịt của ông - đó là Hà Nội./.

GS. Phong Lê