Tô Hoài: Từ “O chuột” đến “Truyện Tây Bắc”, hành trình văn chương qua kháng chiến (Phần 1)

Tô Hoài – cây bút hiện thực đặc sắc của văn học Việt Nam – đã đi từ làng quê Nghĩa Đô đến núi rừng Tây Bắc, để lại dấu ấn khó phai bằng những trang viết chan chứa đời sống, số phận và khát vọng con người qua nhiều chặng đường lịch sử, trước và sau Cách mạng tháng Tám.
2-1759481993.jpg
Cuộc sống khốn khó nơi làng quê ven đô – bối cảnh quen thuộc trong văn chương Tô Hoài trước 1945. Ảnh: Internet

Trước Cách mạng tháng Tám - 1945, trong dăm năm “viết như chạy thi”, Tô Hoài có cùng hai đối tượng quan sát, hai mối quan tâm. Một là cuộc sống quanh mình, nơi một miền quê sát gần thành thị đang ngấm dần và mở rộng sự bần hàn và túng đói, thất nghiệp và ly tán, để cuối cùng là sự vô vọng, tuyệt vọng và cả cái chết... Và một bên là sự tiếp tục của tuổi thơ, sự theo đuổi một thế giới riêng của con trẻ, thế giới loài vật, với những ước mơ, tưởng tượng và khao khát như trong Con dế mèn, O chuột, rồi hồi ức Cỏ dại. Cả hai làm nên hai mảng đề tài tưởng như tách nhau, nhưng thật ra và cuối cùng vẫn cứ hội vào nhau, và thống nhất với nhau trong một thế giới nghệ thuật chung, mang chung cảm quan nghệ thuật đặc sắc của Tô Hoài. Nói Tô Hoài là nói sự thống nhất của thế giới nghệ thuật ấy, dẫu là về vật hoặc về người; dẫu là chuyện về mình như trong Cỏ dại, hoặc chuyện về người như trong Giăng thề, Quê người và Xóm Giếng.

Đó là đặc điểm riêng trong bức tranh hiện thực của Tô Hoài, và cũng là dấu ấn riêng nơi chủ nghĩa hiện thực kiểu Tô Hoài trong văn xuôi Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

Truyện vừa Vở tỉnh đăng ba kỳ trên Tiên phong của Hội Văn hóa Cứu quốc (các số 13, 14, 19; từ 16-6 đến 16-9-1946) vẫn là sự tiếp tục mối quan tâm và gần như vẫn giữ nguyên giọng điệu riêng của Tô Hoài, tác giả của những O chuột, Giăng thể Quê người... Nạn đói, rồi không khí sôi sục chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, bao nhiêu là sự kiện dữ dội, dường như vẫn không làm ngắt quãng mạch văn của Tô Hoài. Cố nhiên cũng đã có một cái gì mới và khác, do việc ông bí mật tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc, có thời gian bị bắt rồi được trả về quê với cái đầu trọc, rồi tham gia viết báo Cứu quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh. Thế nhưng giữa bao nhiêu sự cố và công việc sôi nổi ấy, Tô Hoài vẫn có thể viết, và viết đều như một quán tính quen thuộc, trong một hành trình của ngôn từ, ít khi đứt đoạn.

Vỡ tỉnh, đó là chuyện của vùng ven thị xã Sơn Tây, trong ngày Nhật đảo chính Pháp, ngày “vỡ tỉnh” gây xôn xao cho cả một vùng quê gần như đang im lìm trong tàn lụi và chờ đợi một cái gì không rõ. “Vỡ tỉnh” - trong con mắt người dân là một cuộc loạn đả, xáo trộn, chẳng biết ai thắng ai thua; họ chỉ biết đấy là cơ hội hiếm hoi cho những ai thích tò mò và mong hôi của. Bởi “cái tỉnh lỵ trước mắt bừng bừng, xôn xao, ngổn ngang, rơi vãi của nả”. “Vỡ tỉnh”, thế là cả một đám dân quê ập tới, người cướp được con bò, kẻ tìm được cái khung giường, hăm hở tìm kiếm, rồi nháo nhác mà chạy, rồi xôn xao lên về chuyện đi xem Nhật bắn Tây. Thế nhưng hóa ra kẻ bị bắn lại không phải Tây mà chính là lão Nhã, kẻ đã hôi được vào tay một con bò lạc,... Cứ thế, “vỡ tỉnh”, nó là sự tiếp tục số phận những con người đang bị cuốn vào một vòng xoáy không hiểu sẽ dạt tới đâu. Dưới mắt Tô Hoài, đám nhân vật trong Vỡ tỉnh vẫn là một đám quần chúng vừa tò mò, hăm hở, vừa nháo nhác sợ sệt đi tìm sự sống trong cái chết mà họ không sao hiểu được.

Câu chuyện được Tô Hoài viết sau Cách mạng tháng Tám, nhưng mạch đời Vỡ tỉnh lại vẫn là sự tiếp nối của Giăng thề, Quê người. Dẫu sao, sự đổi đời của dân tộc sớm muộn rồi cũng làm thay đổi cơ bản cảm quan nghệ thuật của Tô Hoài. Nhà văn quen thuộc và quanh quẩn nơi một vùng quê, rồi sẽ khởi động một cuộc đi lớn, một hành trình dài theo kháng chiến và theo đất nước. Những cuộc đi, rồi sẽ trở thành niềm vui thích, sự đam mê của ông, để - như sau này ta sẽ thấy - ông là một trong số ít người sớm lấy việc đi để có cái mới, cái lạ mà viết, đi rất nhiều và rất khỏe. Vừa đi vừa viết; không có cuộc đi nào mà ông không có cái viết; đi rồi viết, viết rồi đi; viết trong và sau khi đi; viết xong lại viết tiếp; và cứ thế không lúc nào ngưng nghỉ... Có thể thấy, mọi hành trình ngắn dài của Tô Hoài sau năm 1945 cho đến đầu thập niên 80 đều in dấu ấn trên các trang viết của ông, đều trở thành nguồn văn của ông...

tn7e4d46-1759482111.jpg
Tô Hoài - người sinh ra để viết. Ảnh: Tuổi trẻ

Từ sau 1945, là phóng viên báo Cứu quốc ra hằng ngày của Tổng bộ Việt Minh, Tô Hoài có mặt ở Vĩnh Yên, Việt Trì, nơi chính quyền cách mạng phải đối phó với các mưu đồ chống phá của Quốc dân đảng. Rồi vào mặt trận phía Nam, đến Nha Trang, lên Tây Nguyên. Từ đó mà có các bút ký Nhớ quê, Lên Củng Sơn, Ở mặt trận Nam Trung Bộ…'. Đầu kháng chiến chống Pháp, Tô Hoài trở lại mặt trận chung quanh Hà Nội. Giữa 1947, Tô Hoài lên Việt Bắc. Từ đây bắt đầu một dòng chảy mới mẻ và rộng lớn trong nguồn văn Tô Hoài...

Làm báo Cứu quốc Việt Bắc, Tô Hoài đi vào đời sống các dân tộc vùng cao như một cán bộ quần chúng thực thụ. Núi Cứu quốc (1948) gồm bốn truyện: Đồng chí Hùng Vương, Nà Lộc, Tào Lường, Công tác xa được Tô Hoài viết trong và sau những cuộc đi vào các làng Tày, làng Dao ở núi Phia Boóc (Bắc Cạn) và các bản Cốc Phường, Vàng Kheo, Pích Cáy, Khuổi Buồn. Và đây là những ghi nhận đầu tiên về cảnh và người một vùng đất mới, rồi sẽ trở thành quen trong cảm quan nghệ thuật Tô Hoài: “Đồng chí Hùng Vương hát, nom rất ngộ. Hai đứa bé xếp bằng trước mặt bố, chẩu lên như hai con ếch, vui đáo để”,... “Đồng chí Bảo từ nãy im lặng như con chuột ngồi rình từng hạt ngô nở nảy trong bếp gio ra.”. Chính nhờ vào những phát hiện này mà Hùng Vương và Bảo, hai nhân vật cán bộ, dễ dàng khiến ta nhớ được, bên những Chẩn, Liễu, Pin,... còn rất mù mờ. Cũng từ cái nhìn này mà người đọc vẫn còn nhận ra một Tô Hoài quen thuộc; bên cái tinh hóm, đùa nghịch lại có thêm sự chuộng lạ và khoe chữ. Nguyễn Đình Thi là người sớm nhận ra đặc điểm (nhược điểm) này trong cách nhìn và bút pháp Tô Hoài: “Tô Hoài thích Việt Bắc, nhưng chưa thực yêu Việt Bắc (...) Tập truyện chưa dứt khoát trong tư tưởng và tình cảm của tác giả. Tô Hoài ghi vội, chưa kịp hòa tư tưởng và tâm hồn theo đề tài”. Và cũng chính Tô Hoài đã có lúc rất chân thành trong tự phê bình: “Viết cái hay thì chỉ thấy chữ khô khan; viết cái dở thì dễ có tình cảm”.

Năm 1949, Tô Hoài viết Ngược sông Thao; 1951, viết Chính phủ tạm vay và Xuống làng.

Năm 1952, Tô Hoài chuyển về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam. Theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc trong chiến dịch Tây Bắc 1952, Tô Hoài đi sâu vào các khu du kích của các dân tộc Mường, Dao, Thái trắng Bản Thải và Ngọn Lao thuộc châu Phù Yên, rồi qua khu du kích 99 sang Trạm Tấu, lên Tú Lệ, lên châu Than Uyên, châu Quỳnh Nhai, qua châu Tuần Giáo, vào châu Điện Biên. Rồi lại từ các khu du kích dân tộc Hmông xuống những vùng mới giải phóng, các làng dân tộc Thái trên cả bốn cánh đồng phì nhiêu của Tây Bắc.

cam-nhan-viet-bac-1759482071.jpg
Thiên nhiên miền núi Tây Bắc – nguồn cảm hứng bất tận trong sáng tác Tô Hoài. Ảnh: Internet

Đây là cái vốn lớn rồi sẽ tạo nên Truyện Tây Bắc, Tô Hoài viết về ba dân tộc Mường, Thái, Hmông.

Biết bao là địa danh Tô Hoài đã đến và đã viết; ai không am hiểu địa lý quả rất khó nhớ; nhưng nhờ vào văn Tô Hoài mà trở nên thân thuộc, đó là Trạm Tấu, Quỳnh Nhai, Than Uyên, Sìn Hồ, Lũng Phầy, rồi Hồng Ngài, Phản Sa,...

Một năm sau, năm 1953, Tô Hoài viết xong Truyện Tây Bắc; và hai năm sau, Truyện Tây Bắc được Giải nhất về văn xuôi trong Giải thưởng 1954 - 1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam.

Kể về những thương đau của đời người, đó không là điều mới trong bất cứ nền văn học nào. Những thương đau dồn cho người phụ nữ, đó cũng là chuyện quen thuộc với văn học Việt Nam. Thế nhưng, đến Tô Hoài, với bức tranh miền núi, những thương đau của người phụ nữ miền núi mới được nói đến lần đầu tiên. Và cũng là lần đầu tiên ta thấy nỗi khổ đó đè lên số phận con người như cả một trái núi, từ lúc sinh ra cho đến lớn, từ trẻ cho đến già, từ kiếp này sang kiếp khác. Qua số phận của bà Ảng (Cứu đất cứu Mường), Mát (Mường Giơn), và Mỵ (Vợ chồng A Phủ), Tô Hoài cho thấy trùng điệp những nỗi khổ của họ, để đi tới cái nhận thức thật đau đớn và khó hiểu là làm sao con người có thể kéo dài kiếp sống lay lắt và mù mịt như thế được, và ý nghĩa cuộc đời người con gái miền núi sinh ra để làm gì? Trong cả ba truyện của Truyện Tây Bắc, quả còn yếu sự sống của nhân vật tiểu thuyết, mà mới chỉ có lời kể của tác giả, của một người dẫn truyện về họ. Thế nhưng chỉ vậy thôi, qua Tô Hoài cũng đủ làm người đọc cảm động lắm rồi.

Truyện Tây Bắc chưa có sự sống đầy đặn của một tiểu thuyết về những cuộc đời, những số phận con người, và đó cũng là tình hình chung của văn xuôi kháng chiến chỉ mới có hành trình dăm bảy năm. Nhưng với Truyện Tây Bắc ta có sự đồng cảm, sự chia sẻ thật tha thiết với con người. Ở đây nhà văn cho ta biết tận cùng những nỗi khổ của người dân miền núi với tư cách một chứng nhân, một người kể chuyện. Ở đây, cách mạng đã là hiện thực một trăm phần trăm cho con người tin tưởng. Những giá trị nhân đạo của cách mạng nếu đã là chung cho cả nước, thì lại càng thấm thía thêm rất nhiều lần đối với vùng cao. Gắn với thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc thu đông 1952, Tô Hoài đã là người hát lên khúc ca hân hoan và xúc động đầu tiên ca ngợi cách mạng trong văn học mới, cùng với Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao...

Ở trên là các cuộc đi, để từ cái nhìn khách quan chuộng lạ, mà chuyển sang sự chia sẻ, trải nghiệm với nỗi đau của quần chúng; là hướng tới lẽ sống lớn của nhân dân, của cách mạng. Tô Hoài từng nói: “Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên”... “Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi”. Tô Hoài từng kể kỷ niệm không thể quên ngày vợ chồng A Phủ tiễn ông ra khỏi dốc núi Tà Sùa, vẫy theo: “Chéo lù! Chéo lù!” (Trở lại!). Cũng như thế là cuộc chia tay với vợ chồng Lý Nủ Chu, dưới chân núi Cao Phạ: “Chéo lù!”. Có được tình cảm đó quả là điều tự nhiên khi nhà văn đã thật sự sống rất nhiều cùng, chứ không phải chi ba cùng với nhân vật của mình: Cùng vác củi, thổi sáo, bắt chuột, đào dúi, bắt cá suối, đi “cướp vợ”... Cùng ăn rêu đá, thịt ngựa không muối, bọ hung xào,...

GS. Phong Lê