Đọc, tìm hiểu Nguyễn Công Trứ khó mà không gợi nghĩ và liên tưởng tới Cao Bá Quát, dẫu với rất nhiều khác biệt giữa họ. Bởi cả hai là sản phẩm của một thời đại, và là tiếng nói tiêu biểu cho giới trí thức Nho học trọn nửa đầu thế kỷ XIX, với những thử thách và bi kịch đặt ra không còn giống với thế kỷ XVIII trước đó. Và cũng không giống nửa sau thế kỷ XIX khi đất nước phải trực tiếp đối đầu rồi mất vào tay chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Thuộc thế hệ tiền bối, Nguyễn hơn Cao 30 tuổi. Khi Cao ra đời, dẫu đã có sớ Thái bình thập sách dâng Gia Long trước đó 4 năm (1804) Nguyễn vẫn còn là hàn sĩ. Khi Cao mất ở tuổi 47 và bị bêu đầu, Nguyễn vẫn còn tiếp 3 năm tuổi già ở chốn quê nhà. Không biết thái độ của Nguyễn đối với Cao ra sao; còn về Cao thì ít nhất 2 lần có quan hệ với Nguyễn. Lần đầu, Cao có thơ họa tặng Nguyễn ở tuổi bảy mươi cáo lão về hưu, khi cả hai cùng ở Kinh. Lần hai, khi Nguyễn ở quê được dân khẩn hoang Tiền Hải - Kim Sơn nồng nhiệt đón rước trong một dịp ra thăm, khiến triều đình lo lắng, dị nghị...
Hãy thử lược kể một số điểm giống và khác giữa hai người. Cả hai đều ngông, tất nhiên sắc thái ngông là có khác nhau, bởi cả hai đều là người có tài và thị tài.
Cả hai đã để lại 2 bài phú Nôm về cái nghèo, cái bần cùng chung cho các bậc hàn sĩ thuộc loại hay nhất trong thể phủ ở thế kỷ XIX và rộng ra là nền phú Nôm trung đại. Một là Hàn nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ vào đấu đời, khi đang còn là một trang công tử xác gắng thu xếp “cung kiếm cầm thư vào một gánh”... Một là Tài tử đa cùng phú của Cao Bá Quát cũng vào đầu đời, trong cảnh “đa cùng”, “tóc xanh” đang nuôi chí “gánh vác giang sơn, quyết ném thanh khâm sang cẩm tử”.
Cả hai đều hăm hở trên con đường công danh, qua con đường cử nghiệp, nhưng đều lận đận. Nguyễn, đến 1819 mới giành được cái Giải nguyên; năm sau - ở tuổi bốn mươi hai mới được nhận Hành tẩu Bộ Lễ.
Cao giành được Cử nhân năm 1831, ở tuổi 23, suýt được Á nguyên, nhưng bị soi mói nên phải rơi xuống áp chót. Ba lần trẩy Kinh thi Hội đều hỏng; nhưng văn tài thì lẫy lừng sớm, giới trí thức và quan trường không ai không biết - để có các truyền ngôn và giai thoại: “Thần Siêu - Thánh Quát”. “Thiên hạ có ba bồ chữ thì ông chiếm một”... Có lẽ vì thế nên vào đầu triều Thiệu Trị, Cao được gọi vào Kinh, ở tuổi ba mươi ba, cũng được nhận chức Hành tẩu Bộ Lễ.
Nguyễn - quan lộ tuy muộn, với rất nhiều trồi sụt, thăng giáng, “lên voi xuống chó”, nhưng trong ngót ba mươi năm Nguyễn cũng có nhiều lúc hanh thông; ở đỉnh cao danh vọng - đó là lúc nhận ấn Binh bộ Thượng thư kiêm Thự Tổng đốc Quảng An năm 1836, ở tuổi 58.
Cao 12 năm quan lộ, tủi cực đủ điều; ở nha môn thì ít, bị đầy đọa thì nhiều, vì nạn nọ đến nạn kia. Vừa mới nhận Hành tẩu Bộ Lễ, được cử giám khảo thi Hương, do cùng Phan Nhạ chữa bài cho 24 học trò mà bị hạ ngục, tra tấn, bị ghép vào tội tử hình, được hạ xuống trảm giam hậu, rồi phải lên tàu thuyền đi công vụ “hiệu lực” ở mấy nước láng giềng thuộc biển Đông trong mấy tháng, cuối cùng bị thải hồi về quê ở tuổi 35.
Mùi lộc quan nha chưa hề được nếm đã phải nếm đòn roi. Năm 1847 lại được vời về Kinh, lo việc giấy tờ, biên tập thơ ca ở Viện Hàn lâm. Chán nghề - nhưng giao du rộng với giới trí thức, trong đó có những người nổi tiếng như Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Hàm Ninh...
Lại trở về quê, rồi được cử Giáo thụ phủ Quốc Oai năm 1850. Những chức quan mọn, cái tài tuyệt không được sử dụng, luôn sống trong nghèo túng, dằn vặt vì trách nhiệm với gia đình, vì nghĩa vụ với đất nước, với nhân dân. Ở chức quan cuối cùng này, chính Cao đã ghi lại cảnh sống của mình:
Mô phạm dăm ba thằng mặt trắng
Đỉnh chung chiếc rưỡi cái lương vàng
Nhà trống ba gian - một thầy, một cô, một chó cái
Học trò dăm đứa - nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi
Nguyễn, đời quan cũng nhiều bầm dập, thăng giáng liên tục; thăng là do công lớn, như dẹp Phan Bá Vành, như làm Dinh điền sứ; nhưng giáng thì rất chóng bởi những nguyên cớ không có gì to - chẳng hạn một tên tù sống mà hạ 4 bậc có lúc bị vu cáo có thuộc hạ buôn lậu mà bị hạ xuống làm lính thú - biên phòng. Từ Tổng đốc, Binh bộ Thượng thư đến lính thú - đó là hai cực vinh - nhục của đời người; ứng phó với tình cảnh ấy, Nguyễn an nhiên trong một thái độ: Nếu chức Tổng đốc không xem là vinh, thì làm lính thú không có gì là nhục. Một đời tận hiến cho vua - trọn vẹn cả hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, rút lại chỉ còn được cái hàm Thừa Thiên Phủ doãn để về hưu, dẫu mấy lần dâng sớ xin hưu nhưng Thiệu Trị không cho.
Còn Cao, tài không những không được dụng mà còn bị rẻ rúng, lăng nhục. Bị tra tấn, bị đày ải, bị bỏ rơi... Nhưng rút lại Cao không chịu làm một hạt bụi vô danh, mà dấn thân vào một lối khác, để làm một cuộc bùng nổ, ở tuổi bốn mươi bảy và để lại cho hậu thế bao giai thoại, thơ văn gắn với hành trạng, tính cách một con người nổi loạn:
Một chiếc cùm lim chân có đế
Ba vòng xích sắt bước thì vương
...
Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời
Trong khi Nguyễn lui về cảnh yên hàn với những lạc thú trong bầu rượu, túi thơ, đàn sáo, ca kỹ... ở quê nhà.
Nguyễn dẫu có bị những đối xử bất công, nhưng cũng đã có lúc được gần vua, Khi đang ở chức Bố chánh Hải Dương (1832) Minh Mạng đã sai người gửi cho ông 20 gói trà, trong mỗi gói dấu 1 nén bạc; bởi Minh Mạng biết Nguyễn thanh liêm, nên có dặn lúc nào túng thiếu thì mật báo cho vua. Như thế là thân tình lắm! Còn Cao, làm gì có được cái ơn ấy ở Tự Đức - người rất biết văn tài Cao, trong câu đối: “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán. Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường”, nhưng quyết không dùng, vì có lần bị Cao chơi xược.
Cả hai giống nhau ở ý thức dấn thân, nhưng một người đến cuối đời vẫn là trung thần, còn một người là nghịch tử.
Hai thái độ sống của người trí thức trong nửa đầu thế kỷ XIX nằm trọn vẹn trong phần đầu thời Nguyễn - từ Gia Long đến Tự Đức. Hai thái độ cần tìm đến sự giải thích trong bối cảnh thời đại và tư chất cá nhân của kẻ sĩ.
Cần mở rộng cái nhìn ra khung cảnh thời đại, gắn với các triều đại phong kiến ở các thế kỷ trước để hiểu cách hành xử và thân phận của kẻ sĩ, qua hai đại diện tiêu biểu trong số ít các trí thức có nhân cách lớn vào nửa đầu thế kỷ XIX là Nguyễn và Cao.
Các vương triều phong kiến lên ngôi bao giờ cũng bằng những thủ đoạn tàn bạo, để thanh toán triều đại trước. Nhà Trần thay nhà Lý, bởi kế sách của quân sự Trần Thủ Độ, cho Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng, và lời khuyên Lý Huệ Tông, ông vua cuối cùng của triều Lý đang nhổ cỏ ở sân chùa: “Nhổ cỏ thì phải nhổ hết cả rễ”. Nhưng Trần có được uy tín nhờ vào ba cuộc chiến thắng Mông Cổ, ghi một dấu son đỏ trong lịch sử trị vì 175 năm.
Nhà Lê tiếp quản một cơ đồ Trần suy thoái, đưa tới sự thoán đoạt của Hồ Quý Ly, rồi nạn mất nước trong 20 năm. Cuộc chiến chống Minh vĩ đại của Lê Lợi trong 10 năm, đem lại vinh quang rực rỡ cho dân tộc. Nhà Lê, tính từ thời Lê sơ, với người khởi nghiệp là Lê Lợi cho đến thời Lê Trung hưng với kết thúc là Lê Chiêu Thống là 361 năm, trong đó mất vào tay nhà Mạc 65 năm, và cuộc phân tranh Trịnh Nguyễn kéo dài 162 năm.
Tây Sơn là một cuộc khởi nghĩa nông dân, rất hiếm hoi, và có lẽ là duy nhất trong lịch sử, nhờ cơ hội và nhờ tài ba thao lược của Nguyễn Huệ mà thực hiện được một sứ mệnh lịch sử lớn là đánh tan 29 vạn quân Thanh, trong một cuộc tiến quân thần tốc ra Bắc, sau khi tiêu diệt tất cả các tập đoàn phong kiến Lê Trịnh ở phía Bắc và Nguyễn ở phía Nam, mà tạo lập nên một vương triều chỉ trong 14 năm, trong đó Quang Trung chỉ ở ngôi được 4 năm (1788 - 1792) rồi mất ở tuổi 40.
Sự qua đời quá sớm của Quang Trung với những người kế nghiệp sức yếu tài hèn đã khiến cho cơ đồ của Tây Sơn dễ dàng rơi vào tay Nguyễn Phúc Ánh vào năm 1802 kết thúc tình trạng rời rã, phân tranh suốt gần ba thế kỷ - kể từ khi Mạc Đăng Dung tiếm quyền nhà Lê vào năm 1527. Ba thế kỷ tao loạn, đến bây giờ mới có cơ yên bình, nhất thống. Một nhất thống được ao ước từ Ngô gia văn phái trong Hoàng Lê nhất thống chí, nhưng phải đến nhà Nguyễn mới thực hiện được, với một lãnh thổ rộng nhất, từ Lạng Sơn đến Hà Tiên, và với số thần dân đông nhất so với tất cả mọi vương triều trước đó.
Nhà Nguyễn bắt đầu từ ngôi Gia Long (1802-1820) và kéo dài sự trị vì của vương triều suốt 143 năm, qua 13 đời vua, cho đến 1945. Ngược về trước, nếu tính từ thời Nguyễn Hoàng nghe lời Trạng Trình xin vào lập nghiệp ở Thuận Hóa từ năm 155 để tránh mưu mô trừ diệt của người anh rể Trịnh Kiểm, qua 10 đời chúa, thì lịch sử trị vì của vua - chúa Nguyễn ở Đàng Trong - bên kia “Hoành Sơn nhất đái” là 387 năm, dài hơn thời Lê. Thế nhưng công tích mà nó đóng góp cho đời lại không phải là một vinh quang mở nước, hoặc dẹp ngoại xâm mà nên. Công tích của nó cũng không phải ở những chiến công dẹp tập đoàn Lê - Trịnh; việc đó phong trào Tây Sơn đã làm gọn, sau hai lần Nguyễn Huệ hành quân ra Bắc. Công tích của triều Nguyễn chỉ là ở việc tiêu diệt phong trào Tây Sơn, khi những người kế nghiệp Nguyễn Huệ, non yếu và bất lực, đã hết cả vượng khí và chẳng còn được lòng dân.
Cần nhớ: sau khi lên ngôi, việc đầu tiên của Gia Long là tận diệt Tây Sơn - “vì 9 đời mà trả thù”, bằng tất cả các thủ đoạn tàn bạo trung cổ. Diệt cho không còn rễ; diệt tất cả đám quần thần, bề tôi, bất kể là phụ nữ hoặc trẻ con... Và thường trực trong lo lắng nhằm tập trung mọi quyền lực để giữ ngôi. Là việc lập Bộ luật Gia Long để củng cố chính quyền, ngăn chặn mọi hiểm họa đến từ nhiều phía. Là thần phục nhà Thanh, để có một mô hình chuyên chính, nhằm bảo vệ ngai vàng cho dòng họ và cho mỗi ngôi vị.
Chống nông dân khởi nghĩa, hàng trăm cuộc. Thời Gia Long là 50 cuộc, Minh Mệnh là 200 cuộc, Thiệu Trị là 50 cuộc... Thời Tự Đức, đó là giặc Chìa Vôi và khởi nghĩa Đoàn Trưng - “Vạn niên là Vạn niên nào. Thành xây xương lính, hào đào máu dân”... Nếu không có nạn Tây dương xâm lược thì hẳn chắc làn sóng khởi nghĩa nông dân còn tiếp tục dâng cao và chưa chừng sẽ đưa đất nước vào một thời kỳ mới.
Gây ra những vụ án lớn để trấn áp mọi sự phản kháng như vụ án các công thần Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt. Nghi kỵ, không tin cậy người tài trong các giới trí thức - nhất là Bắc Hà. Nghi kỵ ngay cả người trong dòng họ, đưa tới những vụ giết hại bi thảm giữa anh em ruột thịt. Sợ giặc Tây dương nhưng lại tự kiêu vô lối, không chấp nhận bất cứ ánh sáng văn minh nào, trong chủ trương bế quan tỏa cảng và khẩu hiệu: Bình Tây sát tả...
Đến hết đời Tự Đức, với Hiệp ước Patenôtre năm Giáp Thân 1884 thì Việt Nam hết quyền tự chủ, chuyển dần sự cai trị sang chính quyền thực dân, theo hai phương thức: trực trị ở Nam Kỳ, và bảo hộ ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ. 35 năm triều Tự Đức đó là tình thế lùi bước và thất bại từng phần, rồi toàn bộ trước sức ép của Tây dương, là mất 3 tỉnh miền Đông, rồi 3 tỉnh miền Tây Nam Bộ; là 2 lần Hà Nội thất thủ; là 2 phe chủ chiến và chủ hòa đánh nhau ở trong triều; là cả nước trong phong trào văn thân nổi lên ở khắp nơi, cuộc này gọi cuộc kia, nhưng “súng hỏa mai” và “rơm con cúi” thì làm sao mà địch được với thuốc súng và chiến thuyền.
Kể từ Dục Đức, Hiệp Hòa, rồi Hàm Nghi, Đồng Khánh... vua chỉ còn là con rối, là bù nhìn, chịu sự cai quản của Phủ toàn quyền, chịu sự giám sát của Tòa khâm. Triều thần năm bè bảy mối, đục nước béo cò, tranh nhau trục lợi và giết hại lẫn nhau. Ai còn chút lòng yêu nước thì đến với dẫn trong các cuộc khởi nghĩa, và cái quốc lúc này là ngược nghĩa với trung quân. Sau 82 năm ở ngôi, nhà Nguyễn đã chấm hết vai trò lịch sử từ 1884. Cuối cùng, sau thất bại của phong trào Cần vương Phan Đình Phùng, năm 1887, thực dân Pháp căn bản đặt được ách thống trị của chúng lên toàn cõi Đông Dương và Việt Nam chuyển từ xã hội phong kiến sang bán phong kiến - thuộc địa...
Một trang sử bi thảm của đất nước, sau ngót chín trăm năm giữ được quyền tự chủ, và không khuất phục trước họa xâm lược phía Bắc. Ai chịu trách nhiệm trước thảm họa này? Về phía chủ quan không thể không thấy trách nhiệm chính là vương triều Nguyễn với những tội lỗi mà nó gây ra cho khối đoàn kết toàn dân; với sự thiển cận chính trị và sự phản động trong phép trị nước của nó.
Xét cả công và tội, thì theo tôi, tội là nặng hơn. Tất nhiên đó là điều vẫn nên tiếp tục bàn luận; bởi nhà Nguyễn ở giai đoạn đầu, từ Gia Long đến Tự Đức, dẫu có chịu ơn thực dân Pháp, cả 4 triều vua đều có ý thức dứt ra khỏi những hệ lụy với chúng, để có tinh thần phản kháng ít nhiều. Và giai đoạn sau khi nước mất, còn có được ba ông vua yêu nước - là Hàm Nghi 13 tuổi, ở ngôi 2 năm (1884 - 1885), Thành Thái 8 tuổi, ở ngôi 8 năm (1889 - 1907) và Duy Tân 8 tuổi, ở ngôi 9 năm (1907-1916), tất cả đều chỉ mới trưởng thành ở tuổi 15 đến 17; cả ba rồi bị thực dân bắt đày biệt xứ.
Nhưng đây là tình yêu nước gắn với lợi ích của một vương triều, và trong giãy giụa của những con chim trong lồng. Nhìn tổng thể, sự trị vì của nhà Nguyễn trong 143 năm, kể cả trước và sau Tự Đức, là không tránh được cái tội làm mất nước, nếu xét trong bối cảnh phương Đông đương thời, Nhật Bản đã có cách thức tự cường mà đuổi kịp phương Tây. Và nhiều nước ở Đông Á và Đông Nam Á có số phận khác ta.
Điều đáng lưu ý là mặc dầu sự bối rối, bạc nhược của vua quan triều Nguyễn, nhân dân ta đã nổi dậy, với vai trò lãnh đạo của các Nho sĩ yêu nước, mà tiến hành một cuộc chiến dài gần nửa thế kỷ; một cuộc chiến dẫu thất bại là khó tránh, nhưng trong hào khí và danh dự.
Thế kỷ XIX trong “nhất thống” của vương triều Nguyễn như vậy là được chia ra hai phần, trước và sau 1858, cho đến 1884, khi triều Tự Đức kết thúc vào năm 1883, để chuyển sang triều Dục Đức chỉ ở ngôi 3 ngày rồi bị giết, và chuyển sang Hiệp Hòa, chỉ ở ngôi trong 6 tháng, lại bị giết... Nhưng đó là chuyện của nửa sau thế kỷ XIX khi nước đã mất, chứ không còn là chuyện của Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát - người của nửa đầu thế kỷ XIX, khi vương triều Nguyễn mới lên ngôi.
Cả Nguyễn và Cao đều vào đường cử nghiệp và lập công danh trong khởi đầu của triều Nguyễn. Những rồi loạn thời Lê - Mạc và Lê - Trịnh, cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn, rồi phong trào Tây Sơn với cuộc chiến lừng lẫy đánh tan đại quân Thanh, rồi sự truy diệt tàn bạo của Gia Long đối với Quang Toản và đám quần thần của Quang Trung đã trở thành quá khứ. Bây giờ là một sự “nhất thống” mới với một chính quyền khôi phục triệt để mô hình phong kiến Trung Hoa; với Bộ luật Gia Long và sự thần phục nhà Thanh; với sự xóa bỏ các trấn - thành để thay bằng tình, phủ, huyện; với việc tổ chức và khôi phục lại hệ thống thi cử, để cứ 3 năm có một kỳ thi Hương, chọn giải nguyên; rồi có tiếp thi Hội, thi Đình nhằm xây dựng bộ máy nhà nước quan liêu...
Đất nước sau bao rối ren, tao loạn đang mong một cuộc sống yên bình, khỏi nạn binh đao. Một triều đại mới, tuy giành được thế thắng tuyệt đối, nhưng luôn lo lắng vì sự bất an của nó, sự đe dọa của rất nhiều hiểm họa. Đó là các cuộc nông dân khởi nghĩa lớn nhỏ đến hàng trăm, vì đời sống nông dân quá khổ do nạn mất đất thuế khóa, cường hào; do thiên tai, đê vỡ, dịch bệnh. Là không thu phục được nhân tâm nên nuôi lòng nghi kỵ kẻ sĩ. Là xây dựng quyền uy tuyệt đối cho nhà vua bằng chủ trương bốn không: không Tể tướng, không Trạng nguyên, không Hoàng hậu, không tước Vương cho người ngoại tộc... Là sự đối phó với ngay cả trong hoàng tộc, không cần nghĩ gì đến tình anh em máu mủ. Là lo sợ nạn Tây dương...
Nhưng dẫu sao thì đất nước cũng đã có hòa bình, các thế hệ kẻ sĩ đã có thể nuôi hy vọng lập thân. Và con đường lập thân - chỉ có một, như độc đạo - đó là việc dùi mài kinh sử, qua cho được các kỳ thi, để có thể lọt vào thế giới quan trường, để “tiến vi quan”; và nếu không được, hoặc chưa được, thì “thối vi sư” “Quan” hoặc “sử” - là để thoát kiếp nông dân, là để vượt lên một đẳng cấp khác, được gọi chung là kẻ sĩ. Mà muốn lọt vào thế giới quan trường là phải dấn vào con đường văn chương - cử nghiệp; là phải khởi nghiệp bằng văn chương.
Ở đây văn chương không phải là một trong nhiều nghề như cách hiểu của chúng ta bây giờ, có khởi đầu từ Tản Đà, và vẫn còn xa lạ với Tú Xương. Bởi văn chương là tất cả. Nó là kinh điển Nho gia. Nó là cái dạy người ta tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nó là đạo - đạo làm người, đạo làm quan. Nó là chí - chí lập thân, lập nghiệp. Văn chương không chỉ là học vấn, thậm chí không phải là học vấn; bởi nó là một thứ cấm nang để chỉ dẫn mọi suy nghĩ, ứng xử, hành động của con người. “Tích chứa lại thì thành đạo đức, phát huy ra thành văn chương, đạo đạt lên thì thành chính sự”.