Chân trời cũ đến với người đọc đầu tiên vào năm 1942, cùng với trước và sau đó là Những ngày thơ ấu của Nguyễn Hồng, Gió đầu mùa và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, Truyện người hàng xóm và Một đám cưới của Nam Cao, Quê mẹ của Thanh Tịnh, Sống nhờ của Mạnh Phú Tư, Cỏ dại của Tô Hoài... Có thể nói, đó là thời của những hồi ức trẻ thơ và sao tuổi thơ lại tìm được sự gặp gỡ và hội tụ vào thời điểm này nhiều đến thế, để qua tuổi thơ mà sống động cả một thời xưa - cũng chưa hẳn là quá xưa - vào một buổi giao thời. Buổi giao thời chứa đựng biết bao biến cố, sự kiện, gợi thức con người hướng tới những chân trời mới, nhưng sự sống và niềm vui cũng chỉ mới là ao ước, và vẫn bị đắm chìm trong lo âu và buồn khổ.
Đối với thế hệ trẻ thơ lớp tuổi tôi, Chân trời cũ đã đến rồi ở lại đấy, để lâu lâu lại hiển hiện như sau một màn sương, chân dung của những anh Hai, chị Yên, em Dìn, chú Nhì... cùng với một “con ngựa trắng” có đủ cả yên cương. “Con ngựa trắng” đang vui và hùng dũng thế bỗng trở nên rầu rĩ, “từ ngày ba tôi mất đi, nó gầy gò thiểu não, mắt nó ướt và có ghèn, thỉnh thoảng cất tiếng hí không nhất định, mà tiếng hí mới buồn thảm làm sao!” (Con ngựa trắng của ba tôi). Hình ảnh con ngựa trắng in đậm trong tôi nhờ vào những đoạn văn Hồ Dzếnh mà tôi rất dễ thuộc lòng. Những đoạn văn thật giàu âm điệu, như đồng vọng lại từ sâu thẳm của một tâm hồn cực kỳ đa cảm, và một quá khứ xa xưa. Những đoạn văn dài như tâm tưởng, và huy hoàng, trang nghiêm một vẻ đẹp cổ điển. “Con ngựa ấy ngày nay đã chết. Cũng như ba tôi đế lại cái danh vọng tàn của những ngày rực rỡ, nó cũng đã từng nổi tiếng một thời về nước kiệu hay”. Con ngựa trắng gắn với những kỷ niệm về người cha.
Thế nhưng Chân trời cũ, theo cảm nhận của tôi, lại dành rất nhiều trang cho người mẹ, và những người thân là phụ nữ. Đó là người chị dâu,“người đàn bà buồn khổ sàng từng hạt tấm xuống nong trong khi trời chiều, sàng từng giọt hoàng hôn xuống tóc” (Người chị dâu tôi). Là người chị nuôi mà tình thương của chị dành cho tác giả cũng chẳng khác nào tình mẹ: “Ngủ trong tình thương của mẹ, trong tình thương của Yên, tôi say sưa trọn mười mấy năm trời đằng đẵng, và chỉ tỉnh dậy, cách đây không bao lâu, để tin rằng nước Việt Nam, quê hương thứ hai của tôi, còn đẹp lắm, người nước tôi vẫn rất đỗi hiền lành” (Chị Yên). Là người em gái cùng cha khác mẹ, mà theo tác giả “trong số những người đọc hôm nay, ít nhất cũng có đến một trăm người quen em gái tôi”. “Tôi nói một trăm, vì muốn để cho em tôi đỡ tủi, khi mưa xuân lướt về trên những mái nhà đầm ấm, và nắng xuân chợt bừng qua lá như ánh sáng chiếu lại từ những tấm lòng của các thiếu nữ đương tơ” (Em Dìn). Một em Fin “người con gái vô tình đi qua ngày tháng” của tác giả, để “từ quãng mênh mông” lâu lâu lại gợi thức “một tiếng gọi buồn bã, một tiếng gọi không hiểu chính của lòng tôi hay của khu rừng linh thiêng nghìn đời lặng lẽ” (Trong bóng rừng). Những câu văn ngân dài như những nốt nhạc buồn trên nền mờ của những kỷ niệm dệt thành quá vãng.
Tôi lại sa đà rồi vậy! Cũng bởi lẽ mạch kể chuyện của Hồ Dzếnh cũng rủ rỉ và sa đà. Các truyện của Hồ Dzếnh hầu hết đều có chủ thể là nhân vật tôi. Ông thường kể và cũng chỉ kể về những người thân, như đã nêu trên, trong đó có cả một con ngựa trắng. Ông thỉnh thoảng kể về người cha nghiêm khắc đến từ một dải đất xa xôi và mênh mông phía Bắc, rồi dừng chân bên bến đò Ghép, huyện Quảng Xương, Thanh Hoá, và kết thành gia thất với một người con gái đất Việt. Người cha đã từng có lúc là trụ cột của gia đình, nhưng rồi vào nghiện ngập và chết sớm để lại cả một gánh gia đình nặng trĩu cho người vợ trông coi. Sức nặng của hồi nhớ và kỷ niệm rồi sẽ dồn về người mẹ - người mẹ Việt Nam mà tác giả tuy không dành để kể riêng cho từng truyện theo kiểu Em Dìn, Chị Yên, Người chị nuôi, Người chị dâu... nhưng lại có mặt khắp mọi truyện, cùng người kể chuyện. Chân trời cũ của tuổi ấu thơ hẳn không thể không còn sắc; tâm khảm nhà văn chỉ mới ngoài tuổi hai mươi lăm, và chỉ trong khoảng cách trên dưới mười lăm năm, nhưng với Hồ Dzếnh đã lại phủ đầy sương mù của kỷ niệm, trong đó không trang nào không lưu luyến, không nguôi nhớ về hình ảnh một người mẹ đã được nâng lên tầm vóc người mẹ Việt Nam, như chính tác giả đã nhiều lần thủ thỉ: “Ngày nhỏ tôi yêu mẹ một cách bịn rịn. Người chiều tôi, có lẽ vì người đoán thấy ở tôi một số phận thiếu êm vui. Tôi đòi gì là Người cho. Tôi muốn gì Người chiều ý (...). Cứ thế, mỗi lần sự khắc khổ của người cha làm tôi đau đớn thì một bàn tay âu yếm lại xoa dịu lòng tôi ngay” (Lòng mẹ). Hồ Dzếnh đã nói về mẹ với đại từ Người viết hoa, để tiếp đó, ở một truyện khác, ông viết thêm như là đúc kết: “Và đến ngày nay, tôi mới hiểu mẹ tôi hơn lúc nào hết, người con gái lái đò trên sông Ghép ngày xưa, người mẹ Việt Nam một cách dịu dàng và cao quý” (Ngày gặp gỡ).
Cảm động, và cũng linh động trong văn Hồ Dzếnh là những chân dung người, và chỉ là những người trong gia đình, gồm bố mẹ, ba anh em, có mở rộng ra một chút sang một ông chú, ông cậu, người chị nuôi, người em khác mẹ... cùng một vài xóm giềng nơi quê ngoại hoặc nơi hành nghiệp của người cha. Nhưng chỉ vậy thôi. Tác giả đặt toàn bộ thế giới đó vào một màn sương tâm tình, và người viết như muốn trải lòng ra để yêu thương tất cả, không chỉ với mẹ, với anh Hai, chị Yên, em Dìn là những người giàu tình thương và nết tốt, mà phải chịu số phận buồn khổ, mà ngay cả với chú Nhì xa lạ, ông cậu - người gây nên tội lỗi; anh cả - cách biệt và hư hỏng... Tấm lòng tác giả thật rất bao dung, dường như không dám nghĩ đến điều ác bao giờ; và giá có lúc vô tình hoặc cố ý chạm phải điều ác thì là cả một nỗi day dứt khôn nguôi.
Con người đó đã trải bao vất vả, nhọc nhằn, và tâm hồn đó cũng đã trĩu nặng bao cơ khổ, nhưng vẫn cứ luôn luôn sẵn sàng sẻ chia với bao buồn khổ, bất hạnh của người khác. Ông viết cho người chị về làm dâu ở quê chồng - là xứ lạ... Ông bênh vực cho mẹ trong truyền đời mối mâu thuẫn giữa nàng dâu - mẹ chồng... Ông giải thích sự lạnh lùng đến như vô cảm của em Fin, người con gái đã đi ông mà lòng ông không lúc nào không nguôi nhớ...
Tâm hồn ông bịn rịn và gắn bó biết bao với quê hương. Chân trời cũ nghiêng về quê ngoại - ấy là quê của mẹ; và quê mẹ đây là quê hương Việt Nam. Đọc Chân trời cũ tôi luôn nhớ về “quê mẹ” của Thanh Tịnh với câu chuyện vợ chồng cô Thảo ở làng Mỹ Lý; cô Thảo lấy chồng đã ba năm, mỗi năm chỉ có thể về thăm ngoại một lần. Trên cái nền chung của nỗi nhớ: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều”, Thanh Tịnh đặc tả một lần cô về thăm ngoại. Ôi, sao mà buồn thương và khắc khoải! Tôi chẳng dám chê quê nội, quê cha với ông bà, chú bác, với từ đường dòng họ rất thiêng liêng.
Tôi cũng đã đọc Quê nội của Võ Quảng viết về một vùng quê ven sông Thu Bồn với bao xúc động và cảm phục tài năng và tấm lòng Võ Quảng. Nhưng không hiểu sao, tự trong đáy sâu tâm khảm, tấm lòng tôi vẫn nghiêng về quê ngoại, nơi cả trong hiện thực và trong tâm tưởng đều gắn với một khoảng đồng, một dải tre mờ, một dòng sông xanh in bóng cả một tuổi thơ tôi... Có điều sự nghiêng về quê ngoại đó, ở Hồ Dzếnh vẫn có một lý do duy lý.
Ông chưa bao giờ được đặt chân lên quê nội - suốt đời vẫn chỉ là một dải mờ nơi phương Bắc rất xa xăm và bí ẩn trong tâm tưởng. Và những người của quê nội như ông chú, người chị dâu dường như là của một thế giới khác ghép vào. Không phải ông không trải lòng mình ra để đón họ; nhưng “chân trời cũ” vẫn là chân trời sống động những kỷ niệm về mẹ, trong cảnh sắc một vùng quê miền Trung, tuy vẫn là trong sương mù của ký ức, nhưng vẫn có thể gợi nên sự hình dung, một phần là núi ngàn, một phần là sông nước.
Sau Chân trời cũ xuất bản năm 1942 viết về chính tuổi thơ của tác giả trong khoảng cách trên dưới 15 năm, lại bẵng đi ngót 50 năm Hồ Dzếnh không viết gì thêm; nói đúng ra ông có viết thêm, nhưng không có gì đáng nhớ. Tác giả đã như tự quên mình đi trong nhọc nhằn kiếm sống của cuộc đời (trong đó có 10 năm làm thợ đúc thép, rồi thợ cơ khí ở Nhà máy xe lửa Gia Lâm và Nhà máy cơ khí Trung quy mô). Cả mấy thế hệ độc giả của ông, trong đó có chúng tôi, cũng tự nhiên lãng quên đi những “chân trời cũ”, vì biết bao lý do chính đáng hoặc không chính đáng ở đời.
Nhưng thời gian, vẫn chỉ thời gian, chăm chỉ, cần mẫn trong sự sàng lọc nghiêm khắc của nó đã đến gõ cửa và nhắc nhở chúng ta nhớ đến những người đã không bao giờ quên đi những “chân trời cũ”. Hồ Dzếnh lại trở về, không phải chỉ với lứa tuổi thơ lớp chúng tôi bây giờ có người cũng đã thành ông thành bà, mà là với tất cả những ai đã qua tuổi thơ, với biết bao là hoài nhớ, để nối dài và làm sâu sắc thêm những điều ân nghĩa và cái phần sống bên trong của mỗi con người. Ông lại nhắc nhở ta biết sống chăm chút hơn, nhân hậu hơn với những gì thân thiết, và cả những gì còn xa lạ hoặc ngang trái trong vận hành đầy vất vả của cuộc đời, cả trong sự tự quên mình đi. Nhưng mặc dầu vậy, hay chính vì vậy, ông lại là người xứng đáng được nhắc đến để mà nhớ thương và yêu mến trong phần cuối thế kỷ XX này.