Có cơ chế, chính sách hỗ trợ đào tạo và tạo việc làm cho các đối tượng chính sách; gắn đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Do điều kiện kinh tế - xã hội của một bộ phận dân cư không đồng đều, mặt bằng dân trí thấp, kinh tế khó khăn, kết cấu hạ tầng thấp kém nên không có khả năng tham gia, tiếp cận được với đào tạo nghề nghiệp. Vì vậy, các đối tượng này cần có sự trợ giúp, hỗ trợ của Đảng, Nhà nước và cộng đồng để họ có thể tiếp cận được với nghề nghiệp và sống bằng nghề nghiệp, góp phần xoá đói, giảm nghèo, thực hiện phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Thông qua cơ chế, chính sách về phổ cập kiến thức và hỗ trợ kinh phí học nghề, tạo điều kiện thuận lợi cho cả người được học nghề và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Tăng cường hỗ trợ tài chính cho đào tạo nghề nghiệp cũng như việc mở rộng công tác đào tạo nghề nghiệp ở các trường dân lập và tư thục; đồng thời, tìm khả năng vay vốn của nước ngoài để phát triển đào tạo nghề nghiệp hoặc liên kết đào tạo nghề nghiệp với các nước có kinh nghiệm. Bên cạnh đó, cũng cần có cơ chế, chính sách để khuyến khích học sinh giỏi tốt nghiệp đào tạo nghề nghiệp được hỗ trợ kinh phí vào đại học theo sự liên thông giữa các bậc học trong hệ thống giáo dục và chính sách hỗ trợ cho học sinh nghèo, vùng nghèo, chính sách hỗ trợ học nghề. Tuy nhiên, không thể bao cấp tràn lan mà phải dành một phần kinh phí cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp để các cơ sở này có nguồn lực đầu tư, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động giáo dục và đào tạo. Vì vậy, nguồn kinh phí tài chính bảo đảm đào tạo nghề nghề cho các đối tượng như bộ đội xuất ngũ, chính sách xã hội sẽ được hỗ trợ tương ứng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp. Trước mắt, thực hiện có hiệu quả Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 của Chính phủ quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm. Đồng thời kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục nghề nghiệp với đào tạo nghề nghiệp và phát triển các ngành nghề, lĩnh vực theo nhiều trình độ, quy mô khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân địa phương.
Gắn đào tạo với sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực là một trong những biện pháp có ý nghĩa quan trọng, thậm chí quyết định đến chất lượng hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, cần: 1) Sớm có cơ chế, chính sách phát hiện, lựa chọn người có tài, có đức để tạo nguồn xây dựng đội ngũ cán bộ, coi đó như một loại của cải quý hiếm của quốc gia; 2) Bố trí cán bộ hợp lý, bảo đảm đúng người, đúng việc với tinh thần lấy tiêu chuẩn làm căn cứ để lựa chọn, đề bạt, lấy hiệu quả công việc để làm cơ sở đánh giá, đãi ngộ; 3) Phải tiêu chuẩn hoá chức danh cán bộ làm cơ sở cho công tác bố trí, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; 4) Phải liên tục lựa chọn, sàng lọc để lựa chọn lấy thực tài qua công việc làm trọng, không dựa vào bằng cấp, học hàm, học vị; đức phải được thể hiện qua cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, thể hiện ở sự trung thành với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân. Đồng thời, hoàn thiện chính sách thu hút lao động đã qua đào tạo đến làm việc ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới và hải đảo; chính sách cầu hiền tài, khai thác triệt để lao động trí tuệ bảo đảm sự phù hợp, chính xác trong tuyển dụng, đánh giá, sắp xếp, đề bạt cán bộ. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài; sớm xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về ngành nghề, lĩnh vực và trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền... phù hợp với chiến lược xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo bảo đảm cơ sở pháp lý để Quân đội tham gia đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá có hiệu quả hơn.
Hệ thống quy định, cơ chế của Nhà nước, Bộ Quốc phòng và sự quản lý điều hành của các cơ quan chức năng có vai trò quan trọng trong việc định hướng hoạt động tham gia đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ở các cơ sở đào tạo trong Quân đội, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để Quân đội tham gia có hiệu quả. Từ Đại hội XI, Đảng ta nhận thấy sự cần thiết phải “hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hoá giáo dục, đào tạo” nhằm động viên các nguồn lực trong xã hội để phát triển giáo dục và đào tạo. Nhờ đó, quản lý, quản trị đại học có bước đổi mới, chất lượng giáo dục đại học từng bước được nâng lên; giáo dục nghề nghiệp có nhiều chuyển biến; chi đầu tư cho giáo dục và xã hội hoá giáo dục được tăng cường; cơ chế, chính sách tài chính cho giáo dục và đào tạo từng bước đổi mới; cơ chế tự chủ, cơ chế cung ứng dịch vụ công trong giáo dục và đào tạo được thể chế hoá và đạt kết quả bước đầu; hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng; nhân lực chất lượng cao tăng cả về số lượng và chất lượng.
Tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định: “Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục và đào tạo gắn với đổi mới cơ chế chính sách để nâng cao hiệu quả đầu tư. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo đúng hướng, hiệu quả. Đầu tư thích đáng cho giáo dục và đào tạo chất lượng cao, trình độ cao; có chính sách đầu tư đặc thù cho vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội trong giáo dục và đào tạo”. Vì vậy, cơ quan quản lý giáo dục và đào tạo cần tiến hành rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định hiện hành về phân cấp quản lý giáo dục và đào tạo, xây dựng mô hình phân cấp quản lý phù hợp, tránh chồng chéo, tạo điều kiện thuận lợi để Quân đội tham gia đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ngày càng hiệu quả hơn.
Mặt khác, các cơ sở đào tạo trong Quân đội và các cơ quan chức năng có liên quan của Bộ Quốc phòng cần tiếp tục nghiên cứu, tham mưu đề xuất giúp Bộ Quốc phòng hoàn chỉnh và ban hành hệ thống định chế quản lý giáo dục và đào tạo; tiếp tục đổi mới chế độ, chính sách đối với các cơ sở đào tạo trong Quân đội tham gia đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng đãi ngộ gắn liền với trách nhiệm.