Vũ Đình Long và cuộc cách tân sân khấu kịch nói Việt Nam (Phần 1)

Nói đến Vũ Đình Long tôi muốn nhấn mạnh hai đóng góp lớn của ông cho kịch hiện đại. Đó là tác gia kịch nói đầu tiên trong lịch sử sân khấu Việt Nam; và là người góp công lớn tổ chức nên thị trường văn chương, trong tư cách ông chủ báo, chủ xuất bản.
vu-dinh-long-vanvn2-1737535758.jpg
Vũ Đình Long, là một trong những nhà hoạt động văn hóa độc đáo và có nhiều ảnh hưởng nhất của nước ta trong thế kỷ XX. Ảnh: Internet

Ở tuổi 25, Vũ Đình Long đã xuất hiện như một gương mặt tác gia sáng giá với hai vở kịch nói: Chén thuốc độc (in trên Hữu thanh, 8/1921; diễn lần đầu tại Nhà hát Lớn Hà Nội, 22/10/1921) và Tòa án lương tâm (Nghiêm Hàm xuất bản, 1923). Hai vở kịch đã làm nên một cuộc cách tân quan trọng đưa sân khấu dân tộc chuyển vào con đường kịch nói, với một diện mạo mới, theo mô hình phương Tây, để từ nay, bên tuồng cổ lại có thêm kịch kim.

Những năm hai mươi của thế kỷ XX là thời của thơ có những chuyển động theo mới nhưng còn chưa dứt ra khỏi được các lối cũ, với người khởi đầu là Tản Đà. Thơ Tản Đà như trong Cảm thu, Tiễn thu dẫu đã có nhiều phóng khoáng trong ý và lời vẫn còn chưa hết trạng thái phân vân giữa mới và cũ.

Cũng là thời của văn xuôi mà đại diện là Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, tuy đã như một quả bom gây chấn động trong dư luận, nhưng vẫn phải hướng tới một kết thúc “luân lý” trong khuôn viên chế độ gia đình, và chưa hết dấu ấn câu văn biền ngẫu.

Đặt Chén thuốc độc và Tòa án lương tâm của Vũ Đình Long bên thơ Tản Đà và Tố Tâm, thấy Vũ Đình Long đã làm được một cuộc cách tân tương đối triệt để.

Đây là vở kịch nói Việt Nam đầu tiên được công diễn; còn trước đó, ở Nhà hát Lớn chỉ diễn một số vở kịch Tây như Bệnh tưởng, Trưởng giả học làm sang của Molière, với dàn diễn viên là các trí thức ở đẳng cấp cao như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Huy Lục... Cũng cần nói thêm, việc diễn kịch là nhằm làm việc thiện, như quyên góp giúp dân bị lụt, giúp trẻ mồ côi, chứ không phải là hoạt động có tính chuyên nghiệp.

diendandoanhnghiepvn-media-uploaded-344-2021-07-02-nha-hat-lon-1737535758.jpg
Nhiều tác phẩm kinh điển của Pháp như Le bourgeois gentilhomme (Trưởng giả học làm sang), L’Avare (Lão hà tiện)… đã được diễn tại Nhà hát lớn Hà Nội. Ảnh: Diễn đàn doanh nghiệp

Cố nhiên, do là kịch bản của tác giả Việt Nam, lấy đề tài trong sinh hoạt thành thị Việt Nam, viết bằng lời văn Việt Nam, nên xét trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật, hai vở kịch của Vũ Đình Long vẫn chưa thoát ra khỏi các dấu ấn giao thời. Về nội dung, vẫn là sự phê phán lối sống tư sản hóa trên lập trường đạo đức cũ. Về nghệ thuật, vẫn phải mượn các sự cố ngẫu nhiên để giải quyết các tình huống kịch; và nhân vật còn thiếu sự sống tâm lý và thiếu các nét dáng chân thực trong tính cách và số phận.

Điều đáng lưu ý ở đây là nếu cuộc cách mạng trong thơ văn được khởi động từ Tản Đà và Tố Tâm, rồi cứ thế mà thẳng tiến, mà giành tiếp những thắng lợi mới, mà thành cả một phong trào, gần như không có một chút gì có dấu hiệu ngưng lại hoặc đảo ngược thì cuộc cách mạng để giành quyền tồn tại và lên ngôi cho sân khấu kịch nói, tính từ khởi điểm Vũ Đình Long xem ra lại mờ nhạt và chật vật. Sau ông hàng chục năm và kéo dài suốt những năm ba mươi của thế kỷ XX, cuộc hành trình của nền sân khấu mới cũng chỉ lác đác dăm ba người hành nghề theo lối nghiệp dư như Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc, Nam Xương, rồi Khái Hưng, Đoàn Phú Tứ...

Một số vở của Vi Huyền Đắc, kể từ Uyên ương (1927), Hoàng Mộng Điệp (1928), qua Kinh Kha (1935) cho đến Kim tiền (1938), Ông Ký Cóp (1938); rồi của Đoàn Phú Tứ như Những bức thư tình (tập kịch ngắn, 1937), Mơ hoa (tập kịch ngắn, 1941), Ghen (1942), Ngã ba (1943) tuy có tiếng vang nhất định trong một số ít công chúng hẹp, nhưng xem ra hoạt động của họ vẫn chưa ra khỏi một cuộc chơi tài tử, gắn với các ban kịch tài tử. Sân khấu kịch nói hiện đại chưa có đất đai ăn sâu vào, dẫu chỉ một bộ phận nhỏ công chúng trung lưu thành thị, trong khi sân khấu truyền thống như tuồng, chèo, cải lương còn có cả một cái biển mênh mông người xem gồm các tầng lớp nhân dân lao động ở cả nông thôn và thành thị.

Ta hiểu vì sao nền sân khấu kịch nói gắn bó và đáp ứng yêu cầu của sinh hoạt đô thị, của đời sống hiện đại còn phải trải một thời gian lâu mới đến được các tầng lớp công chúng rộng rãi. Trong cuộc cạnh tranh và chen vai với toàn bộ các loại hình sân khấu truyền thống, sân khấu kịch nói đã giành được đất sống không phải bằng một cuộc chiến để thủ tiêu nhau mà là một cuộc tranh đua để cùng nhau tồn tại. Và sự chung sống bên nhau đó là kéo dài suốt thế kỷ, cho đến nay, trong khi số lớn các thể thơ cũ và lối văn cũ đều đã yên vị trong các bảo tàng.

Thế nhưng tên tuổi Vũ Đình Long không chỉ gắn bó với hai vở kịch chắc chắn đã có thể yên vị và có ngôi vị trong văn học sử. Thuộc thế hệ tác giả của buổi giao thời, có cả hai thứ vốn Hán học và Tây học, sự nghiệp sáng tác của Vũ Đình Long, sau hai vở kịch viết và diễn vào năm 1921 và 1923; rồi vở Đàn bà mới - như một tuyên ngôn lành mạnh về nghề làm báo - năm 1944, còn nhiều mặt khác rất đáng kể.

Đó là các bản dịch hoặc phóng tác các truyện Tàu và kịch Tây, trong đó số lớn đều là các bản thảo chưa in, kể từ Tây Sương tân kịch (1922) đến các vở phỏng theo Molière: Đạo đức giả, Người yếm thế, Người ghét đời; theo Shakespeare: Hăm liệt hoàng tử Tây Hạ quốc, Âu thiên lộ... Trong số các phóng tác, đáng chú ý là Tổ trên hết (còn có tên Tình trong khói lửa) phỏng theo vở Horace của Corneille, được diễn và xuất bản ở Hà Nội, năm 1953; và vở Cậu Vân, phỏng theo truyện Ông cậu Vania của Sêkhốp, xuất bản sau 1954. Ông còn viết nhiều loại văn khác: Lục mẫu đơn (1926), Thế giới trẻ em (1927), Quốc âm độc bản (1932), và một số bài trên Nam phong và Hữu thanh. Từ 1945 đến 1954, ở Hà Nội ông cho tái bản Tiểu thuyết thứ Bảy, dựng lại nhà in Tân dân.

Vũ Đình Long mất ở Hà Nội năm 1960, khi trên miền Bắc sau mấy năm khôi phục kinh tế đang tiến hành công cuộc hợp tác hóa và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân. Kể cũng buồn cho một cuộc ra đi lặng lẽ của một người có ngót bốn mươi năm hoạt động trên cả hai lĩnh vực văn học và sân khấu; hơn thế, người đã có một cuộc sống trong quan hệ thật rộng rãi với khá đông giới sáng tác, trong đó có không ít tên tuổi tiêu biểu cho văn học những năm ba mươi của thế kỷ XX. Bởi lẽ hoạt động rất đáng được ghi nhận của Vũ Đình Long, ngoài tư cách là người sáng tác còn là người tổ chức, kinh doanh, góp phần tạo nên diện mạo văn học thời kỳ 1930 - 1945 trong tư cách người chủ báo, chủ nhà in, chủ xuất bản, gắn với địa chỉ nhà Tân dân 93 phố Hàng Bông - Hà Nội.

Một sự nghiệp đáng được ghi công như thế, đã bị phủ định ngay từ sau năm 1945. Phải chờ đến công cuộc đổi mới, khi chúng ta đã có một cách nhìn khác, trong việc thừa nhận nền sản xuất hàng hóa và chủ trương một nền kinh tế nhiều thành phần, thì những hiện tượng như hiện tượng ông chủ Vũ Đình Long nơi đời sống văn học hồi 1930 - 1945 trong bối cảnh nền kinh tế thuộc địa lại trở nên dễ hiểu và trở nên quen thuộc. Những hoạt động ấy cần được xem xét lại; trong đó có mặt cần được hoan nghênh và khẳng định.

GS Phong Lê