Sử liệu Đức Thánh Mẫu Vũ Thị Thục

Đinh Thảo
Nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc Việt Nam, Uy Viễn Đông Nhung Đại tướng quân Vũ thị Thục Nương trong Đại khởi nghĩa Hai Bà Trưng. (Bài viết đã đăng toàn văn trên một số báo in, báo điện tử tại Việt Nam và Quốc tế).

Trong thời Bắc thuộc lần nhất tính từ năm 177 Tr.CN khi Triệu Đà xâm lược nước Âu Lạc sát nhập vào Nam Việt, sau đến năm 111 Tr.CN nhà Tây Hán diệt họ Triệu đưa Việt Nam vào thuộc Hán cho tới năm 39 sau Công Nguyên của thời kỳ này có ghi nhận các cuộc nổi dậy của người Việt . Sử sách Trung Quốc có ghi lại các cuộc nổi dậy trong một số năm của người Việt đã khiến nhà Hán phải điều động quân đội từ vùng Kinh Sở xuống đàn áp. Các cuộc nổi dậy nhỏ lẻ này không đủ mạnh và rộng khắp để đánh thắng được sự thống trị của Nhà Tây Hán. Sau khi Lưu Tú dẹp loạn Vương Mãng và lập Nhà Đông Hán, chính sách Hán hóa của Quang Vũ Đế Lưu Tú đối với người Việt càng hà khắc.

Phần nhiều quan lại từ Nhà Tây Hán, Đông Hán đều khắc nghiệt, tham lam, vơ vét các của quý ở Giao Châu như vàng, ngọc trai, long trả, tê, voi, đồi mồi, hương sạ, gỗ quý,… rồi xin đổi đi làm quan nơi khác. Đã thế sưu thuế nặng nề nên người Việt thường xuyên nổi dậy làm loạn. Đến năm Giáp Ngọ (năm 34 sau CN – năm Kiến Võ thứ 10), khi vua Đông Hán Quang Vũ đế sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định bản tính rất bạo ngược nên chính lệnh càng thêm hà khắc. Tô Định lại thêm tham bạo, cướp giết nhiều người Việt. Trước cuộc Đại khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm Kỷ Hợi (39 sau CN), tại Giao chỉ đã có nhiều cuộc nổi dậy trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng, lớn nhất và tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Tiên La, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình của Bà Vũ thị Thục Nương.

Sự nghiệp:

Bà Vũ thị Thục Nương là Nữ Tướng văn võ song toàn, chí khí rất lớn. Bà đã dấy binh khởi nghĩa trước Hai Bà Trưng. Sau này khi Hai Bà Trưng truyền hịch khởi nghĩa có cho sứ giả về mời Bà Vũ thị Thục Nương. Bà nhận tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng và được Hai Bà Trưng giao cho quyền đứng đầu, thống lĩnh các Vị Nữ Tướng của Hai Bà Trưng. Ngày 17/3 năm Quý Mão (năm 43 sau Công Nguyên) trong trận chiến cuối cùng chống Mã Viện thống lĩnh hàng chục vạn quân Đông Hán, Bà và các nữ binh đã quyết chiến đến cùng không để giặc bắt và tử tiết khi mới 26 tuổi.

Thần phả, nhiều đạo sắc phong và truyền kỳ dân gian đều thống nhất ghi rằng: Bà Vũ thị Thục Nương sinh vào giờ Dần ngày Rằm tháng Tám năm Bính Sửu (Năm 17 sau CN) tại Phượng Lâu, nay là Phường Phượng Lâu – Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ (Nguyên xưa là đất Phong Châu, Hùng Vương đóng kinh đô Văn Lang ở đấy.Thời Tần đặt làm Tượng Quận, Đời Hán thuộc quận Giao chỉ). Trước Công Nguyên, nơi đây là cố đô nước Văn Lang độc lập. Gần 2,000. năm qua, tại Phượng Lâu, Việt Trì, Phú Thọ và các đền thờ Bà ở vùng đồng bằng Bắc bộ đều có Lễ lớn kỷ niệm ngày sinh Thánh Mẫu Vũ thị Thục Nương. Trong tất cả các phong tục thờ Thánh và Thần linh ở Việt Nam, đây là một hiện tượng rất đặc biệt - hàng năm Lễ Sinh Nhật Thánh duy nhất được nhân dân Việt làm Lễ chỉ có riêng cho Bà Vũ thị Thục Nương, đến nay đã gần 2,000 năm.

Bà là con gái Nhà giáo Vũ Công Chất, ông còn là thầy thuốc, ngày nay ở Phú Thọ có đền thờ ông là một trong những thầy giáo Việt dậy chữ Khoa Đẩu là chữ Việt cổ thời bấy giờ. Chi họ Vũ Công vốn định cư ở tả ngạn sông Lô mà dấu tích, thư tịch cổ còn ghi Thủy Tổ họ Vũ gốc Việt Thường là các Cụ Vũ Công Bách – Cao Minh Đại Vương và Vũ Công Điền – Cao Sơn Đại Vương. Hai Cụ là bậc Thượng đẳng Phúc Thánh được thờ ở khắp nước Việt Nam. Cao Sơn Đại vương Vũ Công Điền chính là Đức Tản Viên Sơn Thánh (Sắc phong Thần thời Lê Trung Hưng – Thư viện Viễn Đông Bắc cổ). Sau Chi Họ Vũ Công dời sang cư trú ở hữu ngạn sông Lô đối diện quê cũ. Tại đây, các đời tiếp theo có Nhà giáo thầy thuốc Vũ Công Chất. Mẹ bà Thục Nương là Bà Hoàng thị Mầu, cả hai vợ chồng thân sinh ra Bà Thục Nương đều là người gốc Việt Thường.

Sinh thời Bà Vũ thị Thục Nương là một người phụ nữ có nhan sắc tuyệt vời, đoan trang, trung hậu, đảm đang, văn hay võ giỏi nên hiệu là Ngọc Hoa Công chúa. Từ nhỏ, Bà vừa học nghề thuốc, luyện võ và đi chữa bệnh trong dân gian do hai Cụ Thân sinh truyền dậy. Khi 16 tuổi, Bà còn dậy dân phát triển nghề Nông, sáng tác những bài hát dân ca và truyền dậy hát đối, hát xoan, hát đúm vẫn còn truyền lại đến nay ở vùng Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Bà cùng với hai Cụ Thân sinh còn chỉ bảo dân thời ấy quần tụ lại để xây dựng, phát triển Xã - Thôn Việt trong vùng Phong Châu từ những năm đầu thế kỷ I sau Công Nguyên.

Thời ấy, bên kia sông Bạch Hạc ở xã Nam Chân có chàng trai rất có tài đức là Phạm Danh Hương, vào cuối mùa thu năm Quý Tỵ (năm 33 sau Công Nguyên), đã đặt lễ Nạp Thái (Lễ Chạm ngõ) được hai Thân sinh và Bà nhận lời, theo Lễ là 6 tháng nên chờ đến đầu mùa Thu năm Giáp Ngọ (năm 34 sau CN) thì làm lễ Thân Nghinh (Lễ rước dâu). Năm ấy, Bà vừa 17 tuổi.

Không may, liền bên Châu Bạch Hạc có một Quan lang giầu sang quyền thế nhất vùng đã nhiều lần mang lễ vật lớn xin cưới Bà đều bị từ chối, khi biết ông bà Vũ Công Chất và Hoàng thị Mầu cùng Bà Thục Nương đã nhận lễ với Phạm Danh Hương, Quan lang Bạch Hạc vô cùng tức giận liền súc siểm, bầy mưu xui Tô Định vừa nhận chức Thái Thú để chiếm đoạt Bà. Tô Định được mưu, bèn giả làm khách buôn đến tận nơi chiêm ngưỡng dung nhan Bà thấy như Tiên Nữ giáng trần, khi trở về quân doanh liền sai tướng đem quân bắt Cha Bà - ông Vũ Công Chất và chồng chưa cưới là Phạm Danh Hương tới trị sở Giao Châu bắt phải từ hôn và dâng Bà cho Tô Định. Dụ dỗ hàng tháng trời không được, Tô Định đã dùng cực hình ép buộc cũng không được nên đã giết cả hai người. Tô Định thân cầm quân tới vây bắt Bà. Được tai mắt dân ở Châu Bạch Hạc báo tin, đang đêm cả hai mẹ con trốn chạy rồi thất lạc. Bà cầm kiếm phá vây, chạy thoát ra bờ sông Bạch Hạc, nhẩy xuống được thuyền độc mộc, tay chèo, tay kiếm xuôi dòng sông Nhị Hà (sông Hồng) mà về đến vùng đất ven biển lúc đó (nay là huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) thì men theo nhánh sông nhỏ (nay là sông Luộc) mà vào.

Thời kỳ này nước biển đã rút nhưng vùng đất của tỉnh Thái Bình vẫn còn là vùng đất nước lợ với những cánh rừng lớn bạt ngàn và ven biển là rừng sú, vẹt rất hiểm trở nên chưa bị quân Đông Hán chiếm đóng. Bà chèo thuyền theo nhánh sông Luộc vào sâu đến đất Tiên La thì dừng lại lên bờ vào ẩn náu làm tiểu đồng trong chùa Tiên La. Ngày ngày quét dọn sân chùa, đêm đêm luyện võ. Khi đã quen với lương dân vùng Tiên La, Bà vừa dậy học, vừa dùng thuốc Nam chữa bệnh cho dân. Được dân mến mộ, Bà dậy dân trồng trọt, chăn nuôi,… như thế đến năm Bính Thân (năm 36 sau CN) thì cho người tin cẩn tìm đón được mẹ Bà về Tiên La phụng dưỡng.

Sau mấy năm, Tiên La trở thành vùng trù phú, dân Việt khắp nơi về cư ngụ, khai khẩn đất hoang, đào kênh từ sông Luộc để dẫn nước ngọt về trồng lúa, các đời sau khai phá thêm chỗ rộng, chỗ hẹp, được Dân gian đặt tên là sông Tiên Hưng (Vì Bà được dân tôn thờ là bậc Tiên Thánh đã khởi phát Hưng thịnh cho dân) nay di tích vẫn còn trước Đền Tiên La. Thấy dân đã đông, lòng người đã thuận, mùa Xuân, tháng Giêng năm Đinh Dậu (năm 37 sau CN) Bà dựng cờ khởi nghĩa trên gò Kim Quy. Nghe lời hiệu triệu của Bà, người Việt khắp nơi đã nô nức kéo về theo Bà. Sau hơn một trăm năm Bắc thuộc, chính sách Hán hóa đã làm cho số dân là nam giới trong người Việt sụt giảm, vì thế binh sỹ của Bà tuyển chọn cũng toàn là con gái, vừa luyện tập binh pháp, vừa trồng trọt chăn nuôi để có lương cho quân trở nên đội quân rất tinh nhuệ. Nam giới được tập hợp rèn, sửa vũ khí và quân trang.

Binh khí tấn công, phòng thủ là nỏ Liên châu có giá đỡ, để tấn công trong vùng rừng rậm dùng nỏ cầm tay, đoản đao, lao, mác, qua,… có tra cán bằng đồng, lưỡi sắt. Quân trang có giáp che ngực bằng đồng và mũ trụ đồng hay mây đan. Bà còn cho người về vùng núi cao bộ Tân Hưng, một trong 15 bộ của nước Văn Lang (Đầu thế kỷ 15, đổi gọi là huyện Bình Nguyên, sau đổi thành châu Bình Nguyên từ năm 1473, sau lại đổi tên thành châu Vị Xuyên. Địa danh Hà Giang lần đầu tiên được nhắc đến trong bài minh khắc trên chuông chùa Sùng Khánh (xã Đạo Đức, Vị Xuyên), được đúc nhân dịp trùng tu chùa vào đầu thời vua Lê Dụ Tông, năm Ất Dậu 1707. Năm 1895, ranh giới Hà Giang được ấn định lại như trên bản đồ ngày nay. Ngày 20 tháng 8 năm 1891 Toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de Lanessan đã quyết định thành lập tỉnh Hà Giang, bao gồm phủ Tường Yên và huyện Vĩnh Tuy, tên tỉnh Hà Giang được giữ đến ngày nay. Hà Giang núi non hùng vĩ, có đỉnh Tây Côn Lĩnh cao 2419 m và đỉnh Kiều Liêu Ti cao 2402m, khí hậu cận nhiệt đới ẩm nhưng do địa hình cao nên khí hậu Hà Giang mang nhiều sắc thái ôn đới. Vùng cao núi đất phía tây thuộc khối núi thượng nguồn sông Chảy, sườn núi dốc, đèo cao, thung lũng và lòng suối hẹp) để chọn mua ngựa chiến thuần chủng Việt quý, nuôi dễ, ăn kham khổ.

Bà cho chọn ngựa Việt chỉ có một sắc lông gọi là Ô, Ly mầu đen, Phiêu mầu xanh trắng, Tinh là mầu hồng có thân dài, mông to, bụng thon, ức nở, hình cao, gân to, thịt săn, chân thẳng thon chắc, răng trắng đều, bờm dày, lông đều, sờ vào mượt như nhung lụa, đặc biệt là chân dài, nở, thẳng, móng đen phi nước kiệu rất nhanh trên đường bằng, leo núi trèo đèo hiểm trở rất thiện nghệ, phi nước đại nhanh như gió lốc (Giống ngựa Việt này rất nổi tiếng trong thồ hàng, chiến trận. Sau này còn được truyền tụng như con ngựa Song Vỹ Hồng của Lý Thường Kiệt và con Nê Thông của vua Trần Duệ Tông – Ngựa Việt quý của Hà Giang nay vẫn được bảo tồn).

Bà chọn một con ngựa chiến đen tuyền cổ cao, ngực nở, bụng thon, có khoáy ở 4 chân và một khoáy giữa đỉnh đầu để ra trận. Đội quân Nữ binh của Bà có đội kỵ binh dùng giáp mây che ngựa, đội bộ binh dùng khiên mây, giáo, qua, đoản kiếm và đội tên nỏ.

Mẹ Bà là Hoàng thị Mầu cũng ở trong quân lo việc phân phát binh lương và chữa bệnh, chữa thương cho tướng sỹ. Vừa chiêu binh mãi mã, vừa dậy dân khai khẩn đất hoang,.... chỉ mấy năm Tiên La trở thành một vùng trù phú, binh lực ngày một mạnh. Bà cầm quân tiến đánh quân Đông Hán, mở rộng vùng tự trị của người Việt ngày một rộng lớn sang đến huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, các huyện Ninh Giang, Thanh Miện tỉnh Hải Dương, Tiên Lữ, Phủ Cừ tỉnh Hưng Yên ngày nay.

Nhiều lần quân Đông Hán kéo quân sang đánh đều bị đội quân Nữ binh tinh nhuệ do Bà thống lĩnh đánh cho thua trận rút chạy khỏi các vùng đất của người Việt.

Tô Định ngày càng bạo ngược, chính trị tàn ác, dân Việt đã oán giận chồng chất. Năm Kỷ Hợi (năm 39 sau CN, Nhà Đông Hán, vua Quang Vũ Lưu Tú, năm Kiến Vũ thứ 15) Tô Định lại giết Thi Sách Quận Châu Diên, Phủ Vĩnh Tường (nay là Vĩnh Yên). Vợ Thi Sách là Trưng Trắc (quê ở làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên) là con gái Lạc Tướng Mê Linh cùng với em là Trưng Nhị cất quân khởi nghĩa. Hai Bà Trưng cho sứ giả sang mời Bà hội quân cùng đánh Tô Định.

Bà Vũ thị Thục Nương cùng đội Nữ binh hưởng ứng, cùng các Nữ tướng của Hai Bà Trưng đánh bại quan quân Đông Hán. Tô Định chạy thoát về Quảng Châu. Bà Vũ thị Thục Nương đã cùng các Nữ Tướng khác trong đội quân của Hai Bà Trưng giải phóng cả một vùng duyên hải của Giao chỉ Bộ (gồm miền Bắc Việt Nam, vùng Lưỡng Quảng và quận Hải Nam bây giờ). Chỉ trong năm Kỷ Hợi (39 sau CN) đến mùa xuân năm Canh Tý (40 sau CN), Tất cả dân Việt cùng đại quân của Hai Bà Trưng hạ được 65 thành trì, quan quân Đông Hán phải bỏ chạy qua sông Trường Giang về phương Bắc.

Sau khi đã giành lại bờ cõi, Hai Bà Trưng lên ngôi xưng là Trưng Nữ Vương lấy quốc hiệu là Đại Việt. Trưng Nữ Vương xác lập quyền tự chủ của người Việt, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Trưng Nữ Vương xét công trạng có phong cho Bà Vũ thị Thục Nương làm Uy Viễn Đông Nhung Đại Tướng quân - xếp hạng công đầu. Nhưng Bà xin trả lại quan ấn cùng với đội Nữ Binh trở về Tiên La, Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (Thời Hùng Vương là Bộ Lục Hải, đời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc Giao Chỉ) vừa rèn quân lại vừa làm ruộng và chăn nuôi. Tại Tiên La, Bà tiếp tục chữa bệnh cho dân bằng thuốc Nam.

Năm Tân Sửu (năm 41 sau CN) vua Quang Vũ nhà Đông Hán lại sai Mã Viện là danh tướng lúc bấy giờ làm Phục Ba Tướng quân, Phó tướng là Phù Lạc hầu Lưu Long, cùng với Lâu thuyền Tướng quân là Đoàn Chí kéo mấy chục vạn quân tinh nhuệ chia làm hai đường thủy, bộ sang đánh nước Đại Việt của Trưng Nữ Vương.

Ngay khi cánh quân bộ của Đông Hán do Phó Tướng Lưu Long vượt sông Trường Giang tiến về phía Nam đã bị đội Tiền quân Việt do Nữ Tướng Phật Nguyệt đón đánh dữ dội. Phật Nguyệt Công chúa được Trưng Vương phong giữ chức Thao Giang Thượng Tả Tướng thuỷ quân, Chinh Bắc Đại tướng quân, Tổng trấn Động đình và Trường Sa.

Một Nữ tướng có tên là Hoàng Thiều Hoa – Tả tướng Chinh Bắc Tướng quân lĩnh đạo Trung quân trấn giữ Nam Hải. Tướng Đào Hiển Hiệu chỉ huy tiền quân Việt từ Trường Sa rút về Nam đã đóng lại ở Thiên Đài, bắc Ngũ Lĩnh. Khi thấy đại quân Lưu Long tiến vào, quân Việt không chịu lui quân, tất cả đã ở lại tử chiến, khiến quân Hán chết mấy vạn quân mới đi qua được ải Thiên Đài.

Ngày nay trên Thiên Đài, núi Đại Minh, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, ở bên ngoài miếu thờ Đào Hiển Hiệu - tướng của Hai Bà Trưng cùng một nghìn quân sỹ đã quyết tử tại cửa ải độc đạo hiểm yếu tại Bắc núi Nam Lĩnh để ghìm chân đại quân Đông Hán do Lưu Long làm Phó tướng, vẫn còn đôi câu đối khắc trên đá: “Nhất kiếm Nam hồ kinh Vũ-đế / Thiên đao Bắc lĩnh trấn Lưu Long”. Nghĩa là : “Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động-đình làm kinh sợ vua Vũ đế (Ý nhắc đến sự kiện nữ tướng Phật Nguyệt của Hai Bà Trưng đón đánh Mã Viện ở phía Nam hồ Động-đình. Vũ đế là Hán Quang Vũ nhà Đông Hán)/ Một nghìn tay đao Bắc Lĩnh giữ Lưu Long”.

thanh-mau-vu-thi-thuc-nuong-1687752128.png
Ảnh hậu cung có tượng thờ và mộ Thánh Mẫu Vũ thị Thục Nương tại đền Tiên La, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, miền Bắc Việt Nam

Bà Vũ Thị Thục Nương lúc đó là Đốc lĩnh toàn quân trấn giữ Giao Chỉ (Vùng miền Bắc đến miền Trung Việt Nam ngày nay) đã cùng các nữ tướng của Hai Bà Trưng chia quân đón đánh quân Đông Hán. Nhưng thế quân Đông Hán quá lớn, sau nhiều tháng giao tranh, các cánh quân Hai Bà Trưng lần lượt tan vỡ. Hai Bà Trưng chạy về đến xã Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc tỉnh Sơn Tây thì thế bức quá, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông tự tận, bấy giờ nhằm ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão (năm 43 sau CN). Tướng Đô Dương chỉ huy một đội quân thua chạy về đến huyện Cư Phong ( nay thuộc vùng Thanh Hóa) thì ra hàng quân Đông Hán.

Trên cả đất Giao chỉ, còn lại vùng duyên hải là quân Đông Hán chưa chiếm được (nay là duyên hải miền Bắc Việt Nam). Tại đây, đội Nữ binh tinh nhuệ của Bà Vũ thị Thục Nương cố thủ tiếp tục cầm cự ở vùng Lục Hải (Thái Bình ngày nay) khi đó là vùng sình lầy và rừng ngập mặn bạt ngàn. Thấy nhiều lần tấn công đều thua trận, Mã Viện thay đổi chiến thuật không dùng kỵ binh vì ngựa chiến phương Bắc của Hán nuôi dưỡng cầu kỳ, lại không quen thủy thổ Việt, quân dùng cung tên bị vướng khi đánh trong rừng mưa nhiệt đới nên đã huy động đại quân Đông Hán hơn 2 vạn người gồm thủy binh và bộ binh tất cả kéo đến vây kín mấy vòng cả trên bộ lẫn dưới sông biển để chặn đường tiếp lương quân Việt. Sau 39 ngày bị vây hãm, quân của Bà hết lương, tướng sỹ cầm binh khí ngắn đánh giáp công quyết tử không còn một người nào. Quân Đông Hán cũng bị chết rất nhiều.

Ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão (năm 43 sau CN), Bà Vũ thị Thục Nương hai tay cầm song kiếm, một mình một ngựa xông vào tả xung hữu đột chém giết quân Đông Hán như vào chỗ không người, sau gần một ngày quyết chiến, đến chiều tối, Đông Nhung Đại Tướng quân Vũ thị Thục Nương bị thương nặng khắp người nhưng vẫn phá được vòng vây, giặc đuổi theo không kịp.

Khi Bà chạy về căn cứ đến Gò Kim Quy (bây giờ chính là nơi dựng đền Tiên La, nay là thôn Tiên La nơi có địa giới giáp danh hai xã Đoan Hùng và Tân Tiến, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), người và ngựa đều kiệt sức. Mình đầy thương tích, Bà xuống ngựa rồi tự vẫn không để giặc bắt. Dân quá xót thương chôn giấu thi hài của Bà cùng ngựa chiến Ô Long tại gò Kim quy rồi xóa hết dấu tích không cho giặc biết. Giặc truy lùng gắt gao nhiều tháng nhưng không tìm được phải rút hết. Sau khi giặc đã đi xa, Dân dựng một đền thờ bằng tranh tre trên mộ Bà, nhiều đời sau mới thay bằng gỗ và đá. Gương tiên liệt trung trinh của Bà được loan truyền khắp trong dân Việt lúc bấy giờ, bởi vậy gần hết các Nữ Tướng còn lại của Hai Bà Trưng cũng đều noi gương ấy mà tự vẫn khi đang lẩn trốn không để cho giặc Đông Hán bắt.

Xét về lịch sử, Bà Vũ thị Thục Nương là một trong những Nữ Anh Hùng chống ngoại xâm đầu tiên của Dân tộc Việt Nam.

Công đức của Bà sâu dầy, uy linh hiển hách đến mức Bà được dân Việt tôn thờ là Thượng Đẳng Phúc Thánh, Tối linh, Tối cao. Tương truyền trong tâm linh người Việt Nam là Bà hiển linh kiêm cả ba ngôi vị Thánh Mẫu Thượng Thiên, Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Thánh Mẫu Thoải Phủ trong trong Đạo Thánh Mẫu Việt Nam. Những nơi đặt đền thờ Bà, dân chúng đều được yên bình. Vì thế mà lịch sử của Bà rõ và chi tiết. Sau khi Bà Vũ thị Thục Nương tử tiết hiển linh, nhân dân nhớ thương Bà đã lập đền thờ chính của Bà tại xã Tiên La, Huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đến nay đã trải qua gần 2,000 năm khói hương không bao giờ dứt.

Ngày nay, ngay trong hậu cung đền Tiên La vẫn còn mộ Bà và con ngựa chiến đã cùng Bà xông pha chiến trận. Sau đền Tiên La, Thái Bình, suốt một giải các tỉnh duyên hải Bắc Bộ cũng đều có đền thờ Bà có tên là Tiên La Hải Phòng, Tiên La Nam Định,…Trải gần hai nghìn năm qua, năm nào cũng đều có tế lễ, nhân dân nói rằng hàng năm vào ban đêm của ngày chính kỵ, trên nóc hậu cung rực sáng một vầng hào quang. Khắp các nơi trên đất nước Việt Nam đều có thờ Thánh Mẫu là ngôi vị tối linh sau khi Bà hóa, lớn nhất là ở Phủ Dầy, tỉnh Nam Định. Tuy nhiên, tại Đền Tiên La Thái Bình là nơi có mộ của Bà (Kim thân) vẫn được coi là nơi linh thiêng bậc nhất.

Lịch sử Việt Nam ghi rõ tháng 2 năm Đinh Hợi (1287) khi 30 vạn quân Nguyên Mông lại sang xâm lược nước ta: "Ô Mã Nhi đuổi theo (vua Trần) không kịp, đem quân trở về qua Long Hưng ( Phủ Tiên Hưng - Huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay) biết ở đấy có Chiêu Lăng, là lăng tổ nhà Trần, bèn sai quân phá nát cả đi". Trong khi lăng, mộ vua Nhà Trần cách đấy có hơn 1 Km đường chim bay là Đền Tiên La, Hưng Hà rộng lớn uy nghi, nhưng quân Nguyên Mông không hề đụng đến Đền, đến mộ của Bà. Sang thế kỷ XIII, quân Nhà Minh sang chiếm đóng nước ta 20 năm, phá tất cả đền, chùa, bia, sách, bắt giết thanh niên, trẻ con là con giai,... cũng không dám đụng vào Đền và mộ của Bà tại Tiên La – Thái Bình. Đại Việt sử ký toàn thư ghi:

“Năm Đinh Hợi (1287), lần thứ hai, Thoát Hoan được phong Đại Nguyên súy cầm 7 vạn quân Nguyên sang đánh Đại Việt “Ô Mã Nhi đuổi (vua Trần Nhân Tôn) không kịp, đem quân trở về qua Long Hưng (Phủ Tiên Hưng – Hưng Hà, Thái Bình ngày nay), biết ở đây có Chiêu Lăng là Lăng Tổ Nhà Trần, bèn sai quân phá nát cả đi”. Dân gian truyền tụng là do Uy Linh Bà vô lượng nên không thế lực nào dù độc ác hung tàn đến đâu ở cõi trần gian có thể xâm phạm được.

Đạo Thánh Mẫu Việt có ba ngôi thể hiện cho ba sức mạnh siêu nhiên là Thượng Thiên Thánh Mẫu quản về Lửa, Thượng Ngàn Thánh Mẫu quản về núi rừng trên đất và đất, Thượng Thoải Thánh Mẫu quản về Nước cùng tất cả các hiện tượng mưa, bão, lũ lụt, sông, biển. Đó là ba hiện tượng kỳ vĩ là Lửa – Đất – Nước thể hiện sự sinh và diệt của của vũ trụ và trái đất.

Qua nhiều tài liệu về Thần phả, Thần tích, Sắc phong của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam và các Dã Sử đều có viết Bà Vũ thị Thục Nương sau khi hóa hiển linh là Thánh Mẫu kiêm quản Tam Tòa trong Đạo Thánh Mẫu. Sau khi hóa, Thánh thể của Bà còn hiển uy linh thành năm Vị Thánh là Chúa Ngũ Phương bản Đền, Chúa Ngũ Hồ, Chúa Tây Phương, Chúa Đồng Mỏ, Chầu Bát Nàn (Ngàn).

Các sắc phong đều ghi Bà có Thánh hiệu: “Ứng Võ Anh Uy Dũng Bảo quốc, Trung chính, Thượng đẳng Phúc Thánh, Tối linh, Tối Uy, Thánh Mẫu hiệu Ngọc Hoa công chúa Vũ thị Thục Nương kiêm quản 3 Ngôi cao nhất Tam Tòa của Đạo Thánh Mẫu.”

- Thiên Chính danh của Bà là Đức Đệ Nhị Vô cực Thiên Đế Thánh Mẫu Vũ thị Thục Nương ngôi thứ 2 trong Vũ Trụ quản Sinh – Diệt, Tái tạo, Vận hành Âm – Dương và Luân Hồi. Ở ngôi vị này, Bà trên 3 bậc so với Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn Ngọc Hoàng Thượng đế. Tuy nhiên tại Vị Đức Thánh Mẫu thì Bà lại ở bậc thứ 2 sau Ngọc Hoàng, ngang hàng với Đức Phật Tổ Như Lai và Đức Jesus Chritst.

Trong Dân gian còn truyền tụng Bà có hàng chục bài chầu văn lưu truyền trong dân gian ca ngợi Thánh tích, công đức của Bà khi cử hành Thánh Lễ Đạo Mẫu Việt Nam. Trong đó có bài văn chầu giống như trường ca dân gian đã kể lại khá đầy đủ Thánh tích của Bà với những tư liệu lịch sử xác đáng. Bản trường ca sử thi này được cho là đã do các Danh Nho Bắc Hà trong các cuộc khởi nghĩa Văn Thân Việt Nam chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX viết nên, đã được truyền khẩu trong dân gian Việt như sau:

VĂN CHẦU THÁNH MẪU BÁT NÀN TƯỚNG QUÂN

Hàng năm Mười bẩy tháng Ba,
Ai về đến huyện Hưng Hà
Tới thăm Lễ Hội tên Bà Thục Nương
Chuyện xưa kể vào đầu thế kỷ,
Sau Công Nguyên ở xứ Giao Châu,
Cố đô Việt mấy nghìn năm trước,
Nước Việt Thường lại đến Văn Lang,
Vua Hùng cùng với Thục Vương Tây Âu Lạc
Dẫn đầu quân Đại tướng Tuần Tranh,
Cùng danh tướng Vũ Công Bách, Vũ Công Điền
Chống nhà Tần năm chục vạn quân
Diệt Đồ Thư giữ yên nước Việt
Xây Cổ Loa nơi cũ Việt Thường
Triệu Đà dùng kế hiểm sâu
Xui con Trọng Thủy làm chồng Mị Châu
Nỏ thần mất lẫy bị quân cướp thành,
Nước Âu Lạc mất,
Lại thuộc quyền Nam Vương
Đến khi Tây Hán tìm đường tiến sang,
Dân nước Việt chịu bao tầng áp bức,
Lặn biển sâu mò ngọc tìm trai,
Vào sâu rừng tìm bắt tê ngưu
Vàng bạc, gỗ thơm, hương liệu quý, …
Phải tìm cho bằng thấy mới xong,
Rồi gom hết lại cho phường xâm lăng

Người dân Việt không còn tuấn kiệt
Khấn Trời xin được Thánh giáng lâm
Năm mười bẩy ngày Rằm tháng Tám,
Đúng canh Dần, Tiên Chúa giáng sinh,
Một Nàng Công chúa xuống trần
Sinh vào họ Vũ ở miền Phượng Lâu
Ở vùng đất cổ Phong Châu
Cha là Công Chất từ lâu đức dày
Mẹ họ Hoàng tên tự Thị Mầu
Đặt tên con gái là nàng Thục Nương
Mười sáu tuổi sắc soi gương nước,
Vẻ xinh tươi mặt ngọc ánh đào
Thướt tha sắc diện nhường nào,
Tây Thi còn thẹn, sánh sao cho bằng
Phận gái đẹp nhưng tài văn võ
Lại đoan trang bao việc đảm đang,
Khi đến tuổi trăng Rằm có lẻ,
Đã bao người dạm hỏi,
Biết sao trả lời.
Còn có kẻ giầu sang cậy thế,
Ép cha nàng để cưới Thục Nương
Vừa hay sính lễ đến nhà,
Có chàng tuấn kiệt Phạm Hương hỏi nàng.
Lời ước hẹn sang xuân Loan Phượng
Ai cũng mừng tuyệt thế giai nhân

Ngờ đâu sự biến bất thần
Quan tham Tô Định kéo quân tức thì,
Bắt cha cùng với bắt chàng,
Thoái hôn để cướp lấy Nàng Thục Nương
Thà một chết quyết không hàng giặc,
Đã quyết không cho giặc cướp nàng
Than ôi, cơ sự nhỡ nhàng
Chưa xong lời nói lưỡi gươm cắt rồi.
Thương thay số phận của người trung lương
Giặc kia cường bạo không thường
Quân vây quanh khắp một vùng Phượng Lâu
Truy cho bằng được bắt nàng Thục Nương
Giặc đâu ngờ nàng cao võ nghệ
Tuốt gươm nàng phá vòng vây
Đang đêm thoát hiểm sông này,
Thuyền chèo một mái đến miền Tiên La

Dựng cờ nghĩa Anh tài Vũ dũng
Dân khắp nơi nô nức theo về
Tập binh, mở rộng cõi bờ,
Giáo gươm sáng đất, ánh cờ đỏ mây
Một vùng thoát khỏi đời nô lệ,
Dân ấm no quyết chống bạo tàn
Mấy lần quân giặc kéo sang,
Phải thua rút chạy vì Nàng Tướng Quân

Thói tham ác việc không dừng
Năm ba mươi chín lại gây thêm thù
Tô Định giết chết chàng Thi Sách
Để răn đe dân Việt lầm than
Vợ Thi Sách là nàng Trưng Trắc
Cùng với em Trưng Nhị xuất quân
Cho người về Tiên La trưng tập
Mời Tướng quân Thục nữ trinh Nương
Cùng chung việc nước, thù nhà
Hai vai gánh vác sơn hà,
Quyết một trận quét đời nô lệ,
Đem máu xương phá bẻ xiềng gông
Xuất quân đánh trận thành công,
Sáu lăm thành cũ, cõi bờ về tay.
Xét công trạng trong hàng Nữ tướng,
Nàng Thục Nương xếp hạng công đầu
Ban phong hiệu Ngọc Hoa Công chúa,
Đông nhung Đại Tướng toàn quân Hai Bà
Nàng bái tạ xin về chốn cũ,
Cởi giáp binh để lại thường dân
Tiên La bái tạ Phật đình,
Lại lo canh cửi, phận mình Nữ nhi.

Trưng Nữ Vương hiển vinh công trạng
Kinh đô này thành cũ Mê Linh
Giao châu độc lập từ đây
Danh xưng Đại Việt lần này có yên?

Vua Quang Vũ dẹp xong Vương Mãng
Lại giao quan tập hợp quân lương
Chọn tất cả hùng binh tinh nhuệ
Lệnh thêm cho Lưỡng Quảng nam chinh,
Thống quân tướng Phục Ba Mã Viện
Phù lạc hầu phó tướng Lưu Long
Chia đường thủy bộ ầm ầm kéo sang
Hai Bà Trưng chia quân đón đánh
Nàng giáp y dẫn đội tiền quân
Dọc ngang chiến trận khói đen chiến bào,
Quân Đông Hán bạt ngàn đồi núi,
Sức quân đông mạnh mấy quân mình,
Trong vòng trận thế đao binh
Đến khi sức kiệt gieo mình xuống sông
Hai Bà đã vào trong đất Mẹ,
Trôi về đến bến Đồng Nhân,
Nhân dân thương vớt lập thờ tại đây.
Tướng Đô Dương cũng đã theo hàng giặc kia,
Toàn quân còn có mình nàng lĩnh binh,
Rút quân về giữ Thái Bình.

Sau khi triệt phá binh dân Việt
Mã Viện đưa quân vượt sông Hồng
Đông Nhung Đại Tướng Bát Nàn,
Còn trăm quân sỹ trong vòng giặc vây
Nàng đâu tiếc tấm thân đài các
Vốn là dòng Nữ phiệt Trâm Anh
Một phen nợ Nước, thù Nhà
Ba chín ngày quyết xông pha,
Lương binh đã hết đoản đao giết thù,
Nữ binh giữ tiết trinh tuẫn tiết,
Trong hàng quân đã chết hết rồi.
Oai phong hùng khí còn nàng,
Tả xung hữu đột một mình xông pha,
Giữa rừng gươm giáo sáng lòa
Vung gươm giặc đổ đất hòa máu tươi.

Chuyện xưa kể xiết bao đau xót,
Vũ thị Thục Nương Đại Tướng Đông Nhung
Chiến bào thắm máu hồng liệt nữ,
Ánh chiều xuân sáng đỏ một vùng,
Tiên La, ngày ấy oai hùng,
Ánh chiều bảng lảng sáng bừng bóng gươm
Giặc kinh hãi rẽ ra trốn chạy
Một mình nàng cưỡi ngựa truy phong,
Phút giây đã vượt muôn trùng giặc vây
Ngựa phi đến cây tùng cổ thụ,
Nơi này xưa Đại tướng qua chơi
Giờ đây trở lại máu tươi đẫm mình,
Nàng vẫn quyết không cho giặc bắt,
Tuốt gươm kề tuẫn tiết cho xong
Một dòng máu đỏ lên trời,
Hỡi ôi, thân xác hóa người nghìn thu.
Nàng thầm gọi:
Mẹ ơi có biết, lúc này con đã thác về Trời.
Đông Nhung Liệt nữ ở đời
Chết thiêng chiến trận tuổi đời thanh xuân!
Uy linh nàng hóa về Trời,
Thành ngôi Thánh Mẫu để đời nhớ thương!

Dân gian dựng đền thờ nơi cũ,
Hai nghìn năm nghi ngút khói hương
Tôn Bà Vũ thị Thục Nương,
Đông nhung Đại tướng lên hàng Thượng Thiên,
Những người đã hóa về Trời,
Trong hàng bất tử để đời tôn vinh,

Bà hiển linh về nơi trần thế, thăm chúng sinh, cứu khổ dân mình
Những người được đức ân tình
Vẫn thường thấy rõ Bà trong tháng ngày
Trung trinh, Thanh thoát, Thánh linh,
Bà đi dạo khắp non xanh, sóng ngàn,
Bóng Bà muôn dặm trời cao,
Giảm bao cảnh khổ nỗi đau cõi đời
Bà đưa Xuân đến muôn nơi,
Như Bà mãi trẻ, Xuân tươi chẳng già!

Đến lại nơi xưa Bà tuẫn tiết,
Hai nghìn năm mộ phủ hoa tươi,
Khói hương không dứt mây trời,
Nhớ Tiên giáng thế,
Nhớ Người cứu dân,
Nhớ buổi ấy nước nhà độc lập
Nhớ công lao, ơn đức của Bà,
Nhớ ngày mười bẩy tháng ba
Là ngày kỵ giỗ giờ Bà hóa thân,

Ngày Mười Ba tháng Giêng Âm lịch,
Trời mưa phùn tịch mịch vào Xuân
Mịt mù khói tỏa màn sương,
Mái đền thấp thoáng còn vương ánh chiều
Tiếng chuông đồng vọng đâu đây,
Tiếng ngân thánh thót như dây tơ vàng.
Chúng con xin được vào cung lễ Bà,
Bà ngồi tĩnh lặng như trong Phật đài
Lâm râm khấn xin Bà phù hộ,
Trong phút giây tưởng thấy Bà cười,
Nhẹ nhàng Bà bảo:
Con ơi,
Sửa lòng thanh sạch,
Thì đời con nhẹ bước trần gian
Tổ ban cho phép tu thân,
Để con không bị trầm luân kiếp này
Nghe lời Bà dậy sâu xa,
Xin thưa, con hiểu, từ rày cố hơn.
Xin Bà một chút chứng tâm,…

Hà Nội, ngày 25 tháng 08 năm 2014

THAM KHẢO

PV