Vũ Đình Long và cuộc cách tân sân khấu kịch nói Việt Nam (Phần 2)

Từ giữa những năm hai mươi của thế kỷ XX, khi còn là công chức của Nha Học chính Đông Dương, Vũ Đình Long đã quan tâm đến các hoạt động in ấn và xuất bản, một loại nghề nghiệp mang tính chất kinh doanh và nhằm vào mục tiêu kinh doanh; một hoạt động như một nghề tự do trong nền sản xuất tư sản, trong xã hội thuộc địa, mới chỉ xuất hiện ở xứ ta từ đầu thế kỷ XX, và trở nên sôi nổi vào những năm hai mươi và ba mươi.
screenshot-1-1737538570.png
Máy in là biểu tượng cho sự phát triển của ngành in ấn Việt Nam thế kỷ 20. Ảnh: Internet

Năm 1925, Vũ Đình Long mở hiệu sách và lập nhà in Tân dân ở 93 Hàng Bông - Hà Nội. Đến 1930 nhà in Tân dân chính thức khánh thành sau một quá trình chuẩn bị với số vốn ban đầu chỉ là 800 đồng Đông Dương; và với số công nhân được tuyển mộ lúc này mới chỉ có dưới 30 người. Đến 1936 thì Vũ Đình Long dứt khoát thôi hằn nghề công chức ở Nha Học chính Đông Dương để trở thành ông chủ Tân dân.

Lần lượt và xen kẽ, ông cho ra đời nhiều tờ báo lớn có khả năng lấn át và bóp chết nhiều loại báo đàn em. Đó là Tiểu thuyết thứ Bảy (1934 - 1942) ra hàng tuần, 60 trang, giá 5 xu - Nguyễn Công Hoan sợ không bán được nhưng hóa ra rất chạy; Ích hữu (1937 - 1938) cũng ra hàng tuần - là tờ chuyên văn học, gồm nhiều mục hấp dẫn và nhiều minh họa; tạp chí Tao đàn (1939), ra hàng tháng, giá 25 xu; Tủ sách Truyền bá cho thiếu nhi (1941 - 1943) 30 trang, 30 xu... Không kể ông còn cho ra không đều kỳ các loại: Sách học, Quốc âm dẫn giải, Những tác phẩm hay...

Ấn phẩm - gồm sách, báo - của Vũ Đình Long có đại lý ở khắp Đông Dương; với tỷ lệ hoa hồng từ 8 đến 10 phần trăm, quan hệ giữa chủ và các đại lý là hòa thuận, sức tiêu thụ các sản phẩm của nhà Tân dân là khá nhanh.

Là ông chủ, Vũ Đình Long có rất nhiều sự khôn ngoan để chiêu mộ và tập hợp các lực lượng viết văn tự do đã trở nên đông vào những năm ba mươi của thế kỷ XX. Lực lượng viết và dịch chữ Hán gồm: Mai Đăng Đệ, Doãn Kế Thiện, Nguyễn Can Mộng, Nhượng Tổng, Phan Khôi, Tản Đà, Trúc Khê, Nguyễn Đỗ Mục, Phùng Tất Đắc... Lực lượng làm báo, viết văn quốc ngữ thực sự là đồng và thuộc nhiều xu hướng: Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Vũ Bằng, Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc, Leiba, Tchya, Thanh Châu, Ngọc Giao, Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Thảm Tâm, Trần Huyền Trân...

Với lực lượng hùng hậu và đa tài đó, Vũ Đình Long có đủ sức nuôi sống cùng lúc nhiều tờ báo lớn do ông chủ trưởng; và có khả năng lấn át hoặc bóp chết nhiều tờ báo, nhiều nhà xuất bản kém thế. Ông có đủ sức cạnh tranh nghiêng ngửa với Tự lực văn đoàn ở địa chỉ 80 Quan Thánh, là nhóm văn học được tiếng là hùng mạnh, và tỏ ra có nhiều ưu thế và uy thế lúc này. Tự lực văn đoàn với ông chủ Nhất Linh, với người quản lý tài chính là Hoàng Đạo, hoạt động chung quanh hai tờ Phong hóa, Ngày nay, và Nhà xuất bản Đời nay, quả là một lực lượng đáng sợ.

Thế nhưng những biếm họa trên Ngày nay của Tô Tử (tức Tô Ngọc Vân) về Vũ Đình Long Tiên ông, lỗ mũi phun kiếm và tiền tuôn chảy vào hai ống tay áo thụng của Tiên ông; còn các Tiên bà, Tiên nữ, Tiên đồng ở động Tân dân thì thỏa sức đưa rổ rá ra mà hốt bạc, lại chẳng gây phản ứng tức tối gì cho ông chủ họ Vũ; mặt khác, cũng lại nói được sự thật về khả năng kinh doanh và sinh lợi của ông chủ họ Vũ.

Có thể nói, ngoài “thất tinh”, hoặc “bát tử” của Tự lực văn đoàn, cùng một tên tuổi chịu ảnh hưởng của họ khoảng trên chục cây bút, thì gần như số lớn cá nhà văn tự do hồi 1930 - 1945 đều tự nguyện tập hợp hoặc tìm đến với ông chủ Tân dân. Kể cả những người không thuộc nhóm nào như Trương Tửu, Nguyễn Vỹ... cũng không ác cảm với Tân dân.

diendandoanhnghiepvn-media-uploaded-344-2021-07-02-vu-dinh-long-1737538387.jpg
Chân dung Vũ Đình Long. Ảnh: Internet

Tân dân không phải là một “văn phái”, các xu hướng viết ở đây rất khác nhau; một số cây bút cao giá không chỉ viết cho Tân dân mà còn viết cho các báo khác, mặc dầu đó là điều Vũ Đình Long không muốn và vẫn tìm cách ngăn cản. Có sức tập hợp đó vì ông chủ họ Vũ đã biết phát huy những mặt mạnh trong khả năng tổ chức và trong quan hệ ứng xử. Khá bén trong việc phát hiện các nhu cầu của thời cuộc và khả năng đáp ứng cho thời cuộc, ông đưa ra được các giải pháp kịp thời, những mẫu mã thích hợp.

Trong mặt thuận, mặt tích cực của nó, những người viết văn như một lực lượng lao động tự do đã có thể có chỗ làm, có nhiều việc làm trên các tờ báo và các đầu sách do ông chủ nhà Tân dân chủ trương. Bao giờ mà chẳng thế, người viết cần viết và được kích thích viết khi có chỗ in, để kiếm sống hoặc để kiếm danh! Và cố nhiên, mặt trái, mặt tiêu cực của nó, đó là khả năng khai thác, kén chọn của một thị trường lao động chất xám để có thể kiếm lãi và làm giàu. Có điều trong các tài liệu được đọc tôi lại chưa thấy có nhà văn nào nói về lòng tham và sự bóc lột quá đáng của Vũ Đình Long.

Chỉ thấy nói đến cách ông trả nhuận bút khá sòng phẳng; cách ông xử sự khá lịch thiệp, rộng rãi với người viết mà ông tin cậy; cách ông không thất tín với người viết, với các đại lý và với các công nhân. Dẫu vậy, câu chuyện về cuộc “biểu tình” hòa bình của một nhóm nhà văn gồm Trương Tửu, Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Ngọc Giao và Vũ Trọng Phụng - lúc này đã rất yếu và vào thời kỳ cuối của bệnh lao - xuất phát từ nhà Trương Tửu ở phố Tiên Tsin kéo lên phố Hàng Bông để đòi tăng nhuận bút từ tám hào lên một đồng hai, cho một trang bản thảo gồm 32 dòng, mỗi dòng 14 chữ... lại cho thấy cái hiện tượng khó có thể nói khác hơn là sự bóc lột, vì có bóc lột thì có đấu tranh.

Thế nhưng không khí đấu tranh xem ra không phải là quá căng, ông chủ đã dễ dàng nhượng bộ, và những người “biểu tình” thì ra về vui vẻ!. Cố nhiên, những người viết văn ở xứ ta, số lớn đều nghèo, nên ai cũng không khó khăn nhận ra và chấp nhận cách thức đối phó của một người có giác quan khá nhạy bén trong môi trường cạnh tranh làm giàu. Chẳng hạn ai đã đến với Vũ Đình Long thì không được viết cho các báo khác; Ngọc Giao - Chiều niệm Vũ Trọng Phụng; Mới - Xuân Quý Tỵ, nhưng sự thật thì nhiều người vẫn viết cho nhiều tờ. Sự trả công của ông là tùy mặt; ai có tiếng và được khách thì ông trả cao; có người ông trả ít, có người ông không cần phải trả bởi được ông in cho đã là vui rồi. Nguyên tắc ai giao thiệp với ông thì chỉ người ấy biết, còn họ không phải biết gì về nhau.

Là ông chủ có cái nhìn xa, ông biết cách chiêu mộ và trọng đãi người tài, ngay cả khi họ chưa nổi danh; biết cách tích trữ bản thảo để luôn luôn có vốn bản thảo tung ra thị trưởng khi khan hiếm, khi cần đến hoặc khi có dịp; biết cách sử dụng lao động trong nhiều dạng loại (làm công ăn lương trong “biên chế” tòa soạn như Ngọc Giao, nhận thầu như Vũ Bằng, hoặc định kỳ mua bản thảo cho số đông người viết có tên tuổi) và biết cách trả công theo giá trị của sản phẩm để sao cho việc chi ít có thể đem lại thu nhiều.

Trong quan hệ với các nhà văn ông có những cách chơi riêng. Chẳng hạn với Nguyễn Công Hoan, thuộc trong số cộng sự mà ông tin cậy và nể trọng, người mà số lớn đầu sách quan trọng như Tắt lửa lòng, Lá ngọc cành vàng, Kép Tư Bên, Cô giáo Minh... đều được đăng liên tiếp trên Tiểu thuyết thứ Bảy hoặc Phổ thông bán nguyệt san, cũng là người đã có lần bị ông dụ vào việc ký một hợp đồng, để suốt đời ràng buộc với ông.

Cố nhiên, Nguyễn Công Hoan đã không khó khăn tránh được cái bẫy ấy. Thế nhưng việc nhà văn hỏi vay tiền thì ông không bao giờ từ chối; thậm chí ông còn là người hào phóng khi nhận trả góp cho nhà văn món nợ 1000 đồng; món tiền lớn này cho mãi đến sau 1945, Nguyễn Công Hoan vẫn mới chỉ trả được hơn một nửa; và đã được Vũ Đình Long bằng lòng xóa nợ sau 1954.

GS Phong Lê