Sinh ra và lớn lên trong một gia đình dòng dõi khoa bảng, Lê Hữu Trác là con thứ bảy của tiến sĩ Lê Hữu Mưu, cháu ruột của tiến sĩ Lê Hữu Kiều (bố vợ nhà bác học Lê Quý Đôn), ngay từ thời thơ ấu, cậu đã rất thông minh và hiếu học. Lớn lên, theo con đường cử nghiệp của ông cha, Lê Hữu Trác cũng đô đạt và làm quan, nhưng bả vinh hoa không làm ông loá mắt, như lời ông vẫn thường tâm sự:
Lợi danh trước mắt trôi như nước
Nhân nghĩa trong lòng chẳng đối phương
Chẳng bao lâu, Lê Hữu Trác cáo quan, về ở ẩn nơi quê mẹ và lấy tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, nghĩa là ông già lười ở xứ Hải Dương (quê cha) và Bầu Thượng (quê mẹ), dựng nhà ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) để hưởng thú điền viên phụng dưỡng mẹ già và trị bệnh giúp đời:
Cung đàn chén rượu vẫn ưa vui
Lo lắng cho người dạ chẳng nguôi
Trong suốt cuộc đời làm thuốc, Lãn Ông luôn luôn tâm niệm: “Nghệ làm tuổi trẻ, tôi đã phải bỏ nghiệp nho theo nghề y hơn 10 năm đèn sách nghiên cứu đêm ngày, trau dồi nghề nghiệp, trong lòng chỉ luôn luôn nghĩ đến việc cứu giúp người đời”.
Một hôm, người dân chài tên là Thuộc có con gái 13 tuổi mắc bệnh đậu mùa đến xin ông cứu chữa. Giữa trưa hè nóng bức, trên một bến sông hoang vắng, em bé nằm trong con đò nát, gối mình trong cát bỏng, mùi tanh thổi nông nặc xông chật chội, cố nén cơn buồn nôn, tay luôn luôn gạt những giọt mồ hôi đầm đìa trên lên. Mỗi lần tới thăm bệnh, Lãn Ông phải khom người chui xuống lòng thuyền trán. Ác chứng của cơn bệnh hiểm nghèo đã có lúc khiến cho ông nản lòng.
Nhưng ngay đêm hôm ấy, trước sự đau khổ và lòng thành tâm của hai vợ chồng bác thuyền chài, trái tim nhân đạo của vị y sư đã xúc động mãnh liệt. Thế là ông lại vượt lên gian khó, lao vào cuộc chiến đấu mới ác liệt với tử thần và trước sau đúng 1 tháng 4 ngày, cháu bé đã hoàn toàn khỏi bệnh. Chẳng những ông không lấy tiền thuốc men, lễ tạ mà còn giúp đỡ cả gạo, củi, dầu, đèn cho gia đình bệnh nhân.
Vào những năm 50-60 của đời mình, tiếng tăm của Lãn Ông được lan truyền khắp đất nước. Kẻ giàu sang, người nghèo hèn từ những xóm vắng, làng xa đến các cung vua, phủ chúa, hễ ai có bệnh “thập tử nhất sinh” đều tìm đến mọi nhà tranh thôn dã của ông để xin chữa chạy. Năm 1782, chúa Trịnh Sâm lâm bệnh nặng. Ngưỡng mộ tài năng của vị y sư đã bạc trắng mái đầu, Phủ Chúa cho vời ông lên kinh đô để thăm bệnh. Trong thời gian ở kinh kỳ, Lãn Ông đã chữa khỏi cho nhiều vương tôn công tử chốn triều đình và bệnh tình của chúa Trịnh cũng dần dần thuyên giảm. Ông được chúa Trịnh rất trọng dụng và giữ lại ở trong phủ để thưởng trực thuốc thang cho nhà chùa. Vị y sư lập tức tạ sự thoái thác. Rồi khi có điều kiện thuận lợi, ông nằng nặc đòi Huy quận công Hoàng Đình Bảo cho trở về Hương Sơn.
Về tới quê nhà, ông lại sống cuộc đời thanh bạch của mình trong tình thương yêu của bà con thôn xóm. Và, tối đến bên be rượu, ấm trà bát ngát hương trời và mát dịu ánh trăng, những dòng thơ kỳ thú lại vang ngân:
Ngày ngày xem bệnh vừa xong
Đêm đêm tựa bóng trăng trong gẩy đàn
Vùng đông cao vẫn ngủ tràn
Bởi lòng tơ tưởng chữ nhàn mà say
Nhưng Lãn Ông đâu có nhàn mà cũng chẳng lười như ông thường nhận (Lãn Ông là Ông Già Lười). Có chăng ông chỉ lười ở chôn quan trường và say mê thú an nhàn nơi thôn dã. Cả cuộc đời ông là một tấm gương lao động cân cù, sáng tạo. Vào buổi hoàng hôn của đời mình, Lãn Ông đã chuyên tâm hoàn thành bộ Y tông tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển mà ông đã thai nghén từ gần 30 năm trước đó. Đêm đêm, ông làm việc cặm cụi trong thư phòng, dưới ánh đèn khuya, giữa những đống tài liệu và cây thuốc, tắm mình trong những suy tưởng thật cao quý, thiêng liêng...
(Còn nữa)