Tình yêu và bi kịch trong Tố Tâm như men say của văn học lãng mạn (Phần 3)

Văn xuôi viết bằng Quốc ngữ đã có sớm trước Tố Tâm vài thập niên, kể từ Thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản.
huy-8952-1681984459-1681984847-1736523511.jpg
Khung cảnh thành phố Hà Nội những năm 20, nơi những cuộc gặp gỡ và chia ly trong Tố Tâm diễn ra. Ảnh: Internet

Nhưng Thầy Lazaro Phiền dẫu cũng là chuyện về những bi kịch và những giằng xé lương tâm của con người trong lĩnh vực tình trường, và viết bằng chữ Quốc ngữ - như Tố Tâm, nhưng xem ra vẫn chưa phải đã hội đủ các cơ sở để tác phẩm có ngay được tiếng vang. Phải có một gặp gỡ, một kết hợp giữa nội dung và hình thức, nói sát hơn, giữa nội dung mới và hình thức mới, trong một cách thức biểu đạt không còn theo lối cũ, mới mong tạo được bước ngoặt. Bước ngoặt đó đạt được ở Tố Tâm chính vì những yêu cầu như trên đã được thực hiện tốt đẹp, để đến lượt nó - mà tạo nên một cuộc gặp gỡ giữa tác phẩm và công chúng, giữa người viết và người đọc - điều mà chính tác giả đã có lúc nói đến: “Có lẽ nó - Tố Tâm - ra đời vào lúc người mình đang chờ một tiểu thuyết như thế”.

Tố Tâm đã ra đời đúng như sự hình dung, sự mong đợi của một lớp người đọc. Dễ hiểu vì sao nó nhận được sự tiếp đón nồng nhiệt đến thế trong đời sống dư luận - một sự tiếp đón chưa một tác phẩm nào trước đó và đồng thời với Tố Tâm dành được. Nói Tố Tâm là tác phẩm mở đầu cho nền tiểu thuyết mới, tôi nghĩ có nguyên cớ là như thế.

Cuốn tiểu thuyết chi nhằm kể một chuyện tình diễn ra trong hơn một năm, kể từ khi hai nhân vật chính là cô gái con nhà gia giáo Tố Tâm và chàng sinh viên Cao đẳng Đạm Thủy ngẫu nhiên (hoặc do Trời thu xếp) mà quen nhau, rồi yêu nhau. Mối tình diễn ra rất mực thiết tha, say đắm nhưng lại không thể đi đến hôn nhân vì những ràng buộc của hệ ý thức phong kiến và chế độ đại gia đình. Cuối cùng là cái chết của cô gái, một cái chết mang tính bi kịch. Kết thúc chuyện như vậy xem ra là “vô hậu” theo lối mới, chứ không còn là “có hậu” như trong các câu chuyện cổ. Thế nhưng sau bi kịch lại có một dư vị không hẳn là bi quan. Cái cũ tỏ ra thắng thế, nhưng cái mới lại đã có đất hiện diện và gieo cấy thông qua những đau xót và mất mát.

Tính bi kịch không hẳn là bi đát đó cố nhiên vẫn còn nằm trong một tình thế kẹt. Hoàng Ngọc Phách không đặt ái tình lên trên bổn phận. Trong kết thúc của nó, ông muốn tỏ ra là người tôn trọng các bổn phận. Hoàng Ngọc Phách cũng không đưa bổn phận chèn ép ái tình. Ái tình vẫn được “thả lỏng” trong một bầu không khí thuận lợi và thích hợp với nó - đầy say đắm, đam mê, nhớ nhung và khắc khoải...

Thế nhưng ở đây người tuân thủ đạo lý truyền thống đã không có hạnh phúc trong chế độ đại gia đình. Người muốn sống hết mình trong tình yêu đã không có kết thúc hạnh phúc trong tình yêu. Có thể nói đó là cái thế kẹt có nguyên cớ trong trạng thái lưỡng phân - giao thời của xã hội mà Hoàng Ngọc Phách đã sớm cảm nhận và đưa được vào tác phẩm như một thông điệp của thời đại. Nội dung giao thời với các xung đột của nó, và với xu thế của nó, còn kéo dài trên ngót chục năm sau trong sự tiếp tục của Tự Lực văn đoàn với Nửa chừng xuân, Lạnh lùng, Đoạn tuyệt... mà cách giải quyết xem ra cũng không dễ đã gọn ghẽ, dứt khoát. Một là Mai trong Nửa chừng xuân của Khái Hưng đã phải lấy cái đức cao thượng, vị tha mà tìm ra một giải pháp vừa nửa vời, vừa giả tạo. Một là Loan trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh đã phải nhờ vào một sự cố có máu me và Tòa án để đi tìm sự độc lập cho mình. Nhiều chục năm sau, ngay trong chế độ mới, khát vọng hướng tới hạnh phúc của hôn nhân trên cơ sở tình yêu vẫn còn phải tốn biết bao nhiêu là nước mắt như trong Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phương...

4-chan-dung-co-loan-1736523598.jpg
Minh họa nhân vật Loan trong Đoạn tuyệt. Ảnh: Internet

Vậy là qua Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách đã kịp thông báo một nhu cầu bức xúc của xã hội: nhu cầu giải phóng cá nhân con người ra khỏi những kìm tỏa về tình cảm và tinh thần, sự kìm tòa ấy vốn ẩn náu và dồn nén ở địa bàn hôn nhân tình yêu, nơi mà luân lý và giáo lý cũ còn cả một khoảng đất thiêng để trú ngụ; và do là đất thiêng nên con người nếu không có một vận động tự thân và thiếu sự hỗ trợ của ngoại cảnh thì rất dễ dàng thúc thủ.

Cái chết của Tố Tâm và phần đời nhạt nhẽo của Đạm Thủy ở cuối truyện được miêu tả như là sự đầu hàng lễ giáo, là sự sám hối cho những lầm lỡ của con người, nhưng chỉnh lại mang âm hưởng phủ định, tố cáo. Trực ngôn thì nó là sự sám hối nhưng hàm ý lại là sự khêu gợi con người hãy dấn tới - vì có dấn tới thì hạnh phúc mới lọt được vào trong vòng tay những con người muốn yêu, dám yêu, hơn thế, còn dám tận hưởng, dám sống.

Và như vậy là với Tố Tâm, trào lưu lãng mạn trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX chính thức được hình thành bên cạnh các trào lưu luân lý, trào lưu tả thực, vốn đã có truyền thống và vẫn tiếp tục trong phần đầu thế kỷ. Một sự hình thành trên cơ sở tác giả sớm đón nhận những nhu cầu mới của công chúng và những thông điệp mới của thời đại. Một sự hình thành do những ảnh hưởng của văn học phương Tây, nói hẹp hơn, của chủ nghĩa lãng mạn phương Tây mà tác giả được tiếp thụ không chỉ trong chương trình học đường mà trong cả đời sống báo chí, và sinh hoạt văn chương học thuật. Các tác phẩm đã đến sớm với thế hệ thanh niên tân học lúc này như Roméo và Juliette của Shakespeare, Nouvelle Héloise của J. J. Rousseau, Paul và Virginie của Bernadin de Saint Piere, Graziella của Lamartine, Atala và René của Chateaubriand, Werther của Goethe... quả đã để lại không ít dấu ấn trong Tố Tâm và văn chương một thời. Có thể nói, đó là cả một luồng gió mới, đến với mấy thế hệ thanh niên Việt Nam còn đang hoang mang và thất vọng trước thời cuộc nên đang mong tìm một lối thoát. Lối thoát đó, trong hoàn cảnh chế độ thuộc địa, nếu không có điều kiện tham gia cách mạng thì cũng khó có con đường nào khác ngoài tình yêu chống lễ giáo và những khao khát thụ hưởng hạnh phúc cá nhân. Xét trên quan điểm giải phóng cá nhân con người ra khỏi những buộc trói của luân lý, của lễ giáo phong kiến khắc nghiệt thì xu hướng lãng mạn mong muốn cho tự do yêu đương và hạnh phúc của con người trên cơ sở tình yêu cũng có những đóng góp mang ý nghĩa tích cực nhất định. Chuyển sang những năm ba mươi của thế kỷ XX, lối thoát đó sẽ còn tuôn chảy thành cả một dòng rộng lớn trong thơ, và trong văn, với những Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Gánh hàng hoa, Lạnh lùng, Đoạn tuyệt, Bướm trắng, Nắng thu... Điều cần lưu ý là trước khi khơi rộng thành cả một dòng - đục trong lẫn lộn, thì ở phần dạo đầu của nó, nơi Tố Tâm, vẫn là một khởi nguyên trong trẻo. 

GS Phong Lê