Những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động ở Việt Nam

Đinh Thảo
Chính sách đổi mới của Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào nền kinh tế Việt Nam theo nhiều cách, chẳng hạn như thành lập hoặc hợp nhất các công ty liên doanh có vốn tư nhân, bí quyết quản lý mới và công nghệ mới.
lao-dong-1703643762.png
Những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động ở Việt Nam (Ảnh minh họa: Internet)

Về năng suất lao động, sản lượng của người lao động đã được cải thiện đáng kể và ổn định, đặc biệt kể từ khi áp dụng đào tạo bằng công nghệ truyền thông và việc sử dụng rộng rãi hơn phương tiện truyền thông xã hội cũng như các công cụ hiện đại để quản lý. Tuy nhiên, năng suất lao động ở Việt Nam vẫn tụt hậu so với các nền kinh tế lân cận như Campuchia, Malaysia và Philippines.

Các nguyên nhân có thể gây ra “rào cản đối với năng suất lao động ở Việt Nam” năng suất lao động đã được cải thiện đáng kể trong giai đoạn 2007-2016, trung bình 4,2% mỗi năm và GDP của Việt Nam năm 2022 đạt mức 4.110 USD bình quân đầu người tăng trưởng 393 USD so với năm 2021. Tuy nhiên, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam không vượt trội so với các nước Đông Á, Đông Nam Á khác. Một nguyên nhân giải thích cho năng suất lao động của Việt Nam thấp là do Việt Nam đang chuyển dịch từ nền nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ mà chưa chuẩn bị lỹ lưỡng về chất lượng đào tạo lao động trong lĩnh vực mới này. Vì vậy, Việt Nam phải dỡ bỏ các rào cản về thể chế, nhân lực, cơ sở hạ tầng để thay đổi năng suất lao động.

Rào cản ở cấp độ thể chế nền kinh tế Việt Nam dựa vào ba trụ cột kinh tế quan trọng: khu vực DNNN đóng góp 29,87% GDP, khu vực tư nhân 40% GDP và đầu tư trực tiếp nước ngoài 20,13% GDP năm 2022. Tuy vậy, các doanh nghiệp nhà nước (SOE) hiện nắm giữ một phần đáng kể tài sản, vốn và nguồn lực của đất nước. Trên thực tế, mặc dù các DNNN được hưởng lợi rất nhiều từ nguồn lực sản xuất của nền kinh tế và được hưởng nhiều ưu đãi từ các chính sách kinh tế nhưng nhiều DNNN lớn thậm chí còn bị thiệt hại tài chính đáng kể, thua lỗ kéo dài do sự kém cỏi của các nhà quản lý DNNN được lựa chọn chỉ dựa trên nền tảng chính trị của họ chứ không phải năng lực chuyên môn, nhưng không có biện pháp trừng phạt nào được áp dụng để khắc phục những thất bại hoặc buộc những nhà quản lý này phải chịu trách nhiệm. Hơn nữa, rõ ràng các công ty này đã không hoàn thành sứ mệnh mà Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa giao phó.

Những thiếu sót về mặt thể chế được xác định ở đây là những sơ hở của Luật đối với các doanh nghiệp nhà nước, không xử lý các hành vi quản lý yếu kém và tham nhũng, đồng thời khiến các nhà quản lý DNNN phải chịu trách nhiệm về những tổn thất. Ngược lại, tài nguyên thiên nhiên tiếp tục cạn kiệt vì lợi ích cộng đồng.

Rào cản ở cấp độ cơ cấu Chính sách tái cơ cấu kinh tế tập trung vào 3 lĩnh vực chính: đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ phát triển trên diện rộng sang dựa trên đầu tư phát triển. Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam hiện đang gặp một số thách thức theo ba kịch bản sau:

- Chính sách tái cơ cấu nền kinh tế vẫn giữ tư duy cũ phản ứng với những thay đổi. Kết quả là, kết quả sẽ bị hạn chế ngay cả khi kết quả là tích cực.

- Chính sách tái cơ cấu nền kinh tế vẫn ưu tiên hình thức cấp vốn cho doanh nghiệp nhà nước thay vì doanh nghiệp tư nhân. Như vậy, mức độ cạnh tranh của Việt Nam so với các nước có nền kinh tế tự do khác sẽ bị hạn chế.

- Chính sách kinh tế mới đưa ra các thể chế tăng cường nguyên tắc kiểm tra và cân bằng, như luật đầu tư công, hệ thống ngân hàng thương mại, phân cấp và tư nhân hóa các thành phần kinh tế. Kết quả là sẽ có sự cạnh tranh tự do giúp tăng năng suất.

Hiện tại, các nguyên tắc cơ bản của cơ chế thị trường tự do vẫn chưa hoàn thiện. Quan trọng hơn, quá trình ‘tư nhân hóa’ nửa chừng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao tài sản cho các chủ sở hữu thực sự được ủy quyền là các bộ chủ quản và nắm giữ vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước mà không tự mình bỏ vốn vào công ty. Do đó, các nguyên tắc kiểm tra và cân bằng phải hoạt động thông qua các tổ chức được trao quyền để thực hiện việc đó.

Rào cản ở cấp độ doanh nghiệp Doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh thấp so với khu vực và thế giới do khả năng tự chủ về tài chính và quản trị kém hiệu quả, mặc dù thâm dụng vốn nhưng chưa gắn liền với đổi mới công nghệ. DNNN có quyền lực vì bộ ngành của họ vừa là đại diện chủ sở hữu (Nhà nước) vừa kiểm soát các chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, ít có sự giám sát của kiểm toán nhà nước và cơ quan thuế mà phụ thuộc nhiều vào các bộ, ngành liên quan. DNNN huy động nguồn lực quốc gia rất lớn nhưng đóng góp dưới 30% GDP. Mặt khác, doanh nghiệp tư nhân bị từ chối cơ hội cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) do chính sách “không rõ ràng” về đối xử bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh. Ở nhiều ngành và địa phương, các ưu đãi quá mức để thu hút FDI bao gồm miễn thuế, miễn đất cho cơ sở sản xuất, lãi suất vay thấp, v.v. đã gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh cho các doanh nghiệp tư nhân địa phương trong việc tiếp cận các nguồn lực để bắt đầu hoạt động trên cơ sở bình đẳng.

Các yếu ảnh hưởng đến năng suất lao động thấp ở Việt Nam

Chi phí vận hành cao là những yếu tố chính khiến sản phẩm Việt Nam kém cạnh tranh trên thị trường. Chi phí ngầm cũng là một gánh nặng đáng kể khác đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tiền lương thấp, dẫn đến năng suất thấp, giờ đây khiến công ty tốn nhiều chi phí hơn do lạm phát. Tỷ lệ đóng bảo hiểm doanh nghiệp chiếm gần 22% tiền lương tháng tại Việt Nam làm tụt giảm động lực làm việc của người lao động trong giai đoạn khó khăn còn nhiều và tỷ lệ thất nghiệp đang gia tăng tại khu vực doanh nghiệp tư nhân.

Sự đối xử không công bằng giữa khu vực công, khu vực tư nhân trong nước và doanh nghiệp FDI là cơ sở dẫn đến cạnh tranh cao về nhân lực, tài nguyên và thị phần. Ảnh hưởng đến năng suất lao động ở Việt Nam cũng do bởi tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm là rất lớn. Dù có lợi thế về tuổi trẻ và sự kiên trì nhưng những lao động có trình độ chuyên môn cao này lại không thể hòa nhập với môi trường làm việc mới do trình độ ngoại ngữ kém, thiếu kiến ​​thức chuyên ngành và khó thích ứng với sự thay đổi. Do vậy, điều chúng ta cần làm trong những năm tới là tập trung vào con người, phát triển thông qua cải tiến giáo dục về khoa học và công nghệ; tăng cường giáo dục kỹ thuật và kỹ năng.

Đặc biệt, làm thế nào để thu hút nhân tài, lao động có kinh nghiệm trong số người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các nhân tài đang làm việc tại các tập đoàn đa quốc gia cùng tham gia vào hệ thống lãnh đạo khu vực công nhằm tạo thêm công bằng xã hội và hình thành một xã hội sáng tạo. Mỗi sáng kiến dù là nhỏ nhất đều cần được xã hội nuôi dưỡng và trân trọng, làm nền tảng để tăng năng suất lao động.

Giải quyết các nút thắt về cơ sở hạ tầng và đầu tư vào công nghệ sẽ tăng thêm giá trị cho sản phẩm của chúng tôi. Bằng cách đánh giá cao giá trị gia tăng của sự đổi mới và sáng tạo của người lao động, người sử dụng lao động Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ tiềm năng tiềm ẩn của những người lao động thích làm việc trong môi trường khuyến khích sự sáng tạo.

Phát triển nguồn nhân lực để tận dụng tối đa nhân viên tiềm năng, nhà tuyển dụng nên học cách áp dụng quan điểm mới về tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực. Thay vì chỉ dựa vào trình độ chuyên môn, người quản lý nhân sự nên xem xét tiêu chí năng lực thực hành và kỹ năng nghề trong quá trình đánh giá và tuyển dụng của mình. Ngoài ra, nhà tuyển dụng nên nhìn thấy giá trị của một nhân viên sở hữu văn hóa chung, trình độ kỹ năng và tay nghề. Hơn nữa, các chủ doanh nghiệp nên thay đổi tư duy đầu tư vào lao động giá rẻ để tạo lợi thế cạnh tranh giành thị phần. Để tạo ra giá trị gia tăng cao hơn cho doanh nghiệp của mình, chủ doanh nghiệp nên xây dựng chiến lược kinh doanh dựa trên cung cầu, lợi thế cạnh tranh và phát triển tốt nguồn nhân lực. Tương tự, ở cấp độ kinh tế vĩ mô, chính sách phát triển nguồn nhân lực hiệu quả phải thích ứng với nhu cầu của nền kinh tế và là bước thiết yếu để đạt được giá trị gia tăng và năng suất cao hơn nhằm đạt được sự bền vững kinh tế mạnh mẽ hơn.

Do vậy, tăng năng suất là yếu tố thiết yếu trong phát triển kinh tế của một quốc gia và chỉ bằng cách tăng năng suất, Việt Nam mới có thể đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Dù có những chuyển biến tích cực trong những năm gần đây nhưng Việt Nam vẫn phải đặc biệt quan tâm đến năng suất lao động vì năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở dưới mức tăng trưởng cần thiết để đạt được mục tiêu tăng trưởng dự kiến. Tốc độ tăng trưởng năng suất lao động phải đạt 6% để đạt GDP bình quân 7%.

Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra những cơ hội chưa từng có cho Việt Nam và có thể tăng năng suất, hiệu quả lao động. Khuyến nghị của Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng là ưu tiên khu vực tư nhân dẫn đầu phong trào năng suất lao động quốc gia trong việc cung cấp dịch vụ tư vấn và báo cáo Chính phủ về thành tựu kinh tế. Hơn nữa, Chính phủ nên hỗ trợ các ngành công nghiệp chiến lược do doanh nghiệp nhà nước dẫn đầu để được hưởng lợi từ kinh nghiệm của các nền kinh tế công nghiệp hóa mới như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore thông qua các hiệp định thương mại song phương. Từ góc độ như vậy, Luật Doanh nghiệp nên bao gồm các điều khoản có thể thực thi việc bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài và tăng cường niềm tin của họ vào nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới nhằm tạo thêm động lực trong việc thu hút vốn và nguồn lực đầu tư nước ngoài./.


[1] Tổng cục Thống kê (2016) (2017), Báo cáo năng suất lao động Việt Nam

[2] https://www.oecd-ilibrary.org

[3] https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2023

TS. Đinh Thế Hiển - Nhà báo/TS Nguyễn Hoàng Hiệp