Vấn đề này là tất yếu khách quan để chủ động ứng phó với sự điều chỉnh chiến lược quân sự của các cường quốc quân sự, nhất là chủ động ứng phó với thời kỳ đầu chiến tranh nếu xảy ra. Cùng với hoàn thiện chiến lược chung về bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã chú trọng lãnh đạo việc đi sâu phát triển các chiến lược chuyên ngành như chiến lược bảo vệ biển, chiến lược biên giới, chiến lược thông tin, chiến lược phòng không,... Đặc biệt, đổi mới tư duy lý luận về phương thức gắn kết giữa chiến lược quốc phòng với chiến lược an ninh và chiến lược đối ngoại được chú trọng nhằm làm cho các lĩnh vực này có thể tác động và thúc đẩy lẫn nhau tạo sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội lần thứ XI của Đảng xác định: “Hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, các quy chế phối hợp Quân đội, Công an và các tổ chức chính trị - xã hội”. Vấn đề này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để bảo đảm cho toàn bộ quá trình xây dựng nền quốc phòng trong thời bình cũng như quá trình tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc luôn giữ đúng định hướng chính trị và vận hành thông suốt, có hiệu lực.
Trong giải quyết thực tiễn, việc xây dựng phương thức vận hành nền quốc phòng toàn dân ở nước ta hiện nay luôn gắn với sự chuẩn bị cho phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân nhằm phát huy thế trận chiến tranh nhân dân, cũng như sức mạnh của lực lượng vũ trang và toàn dân đã chuẩn bị từ thời bình để giải quyết các mục tiêu của chiến tranh nếu xảy ra.
Phương thức vận hành nền quốc phòng toàn dân đã phát huy tác dụng trong việc tổ chức, bố trí và triển khai lực lượng mọi mặt theo mục tiêu, kế hoạch của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, đánh thắng mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực phản động. Mục tiêu quốc phòng toàn dân ở nước ta trước hết là giữ gìn độc lập dân tộc, tuy nhiên trong thời kỳ mới, giữ nước không chỉ là chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, mà quan trọng là phải giữ được chế độ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Do vậy, vận hành nền quốc phòng toàn dân không chỉ là xây dựng thế trận trong thời bình để chờ đối phó với chiến tranh, mà phải là thế trận được củng cố ngày càng vững chắc cùng với sự phát triển của đất nước trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Thực chất, đó là thế trận lòng dân làm thất bại cuộc tiến công toàn diện của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong điều kiện thời bình như “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ,... Và khi chiến tranh xảy ra thì tất cả các điều kiện đã được chuẩn bị trong tổng thể ấy sẽ chuyển thành sức mạnh hiện hữu một cách có tổ chức, hiệu quả để đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Vận hành nền quốc phòng toàn dân hiện nay luôn quán triệt sâu sắc quan điểm về tính toàn dân của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định về sức mạnh của một đất nước chính là nhân dân, “lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết”, “có toàn dân đoàn kết, thì kháng chiến nhất định thắng lợi”, và trong xã hội thành công phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi, nhân hòa... Nhân hòa là tất cả mọi người đều đoàn kết.
Nhân hòa là quan trọng hơn hết. Trong thời bình, lực lượng chính trị của nhân dân phải là lực lượng chủ yếu. Do đó, trong vận hành nền quốc phòng toàn dân thì vai trò của mỗi người dân càng được khẳng định trực tiếp hơn so với các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ đất nước trước đây. Khi chiến tranh xảy ra, thế trận và lực lượng quốc phòng phải được chuyển hóa thành thế trận và lực lượng của chiến tranh nhân dân đánh thắng kẻ thù xâm lược, ngay từ thời kỳ đầu chiến tranh.
Để thực hiện điều đó, Đảng ta chủ trương làm cho mọi lúc, mọi nơi, nhân dân phải được chuẩn bị tốt về chính trị tư tưởng, được tổ chức chặt chẽ, được huấn luyện cách thức hành động nhằm đấu tranh thắng lợi với địch trên các mặt trận chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh; lấy phố phường, làng xã, khu vực phòng thủ thành phố, quận, huyện, các cơ quan, xí nghiệp làm cơ sở thực hiện toàn dân đánh giặc; đồng thời có cơ chế phù hợp để phát huy sức mạnh từng người, từng tổ chức, từng lực lượng thành sức mạnh tổng hợp.
Tính toàn dân phải gắn với tính toàn diện trong phương thức vận hành nền quốc phòng của Việt Nam hiện nay. Đó là phương thức khai thác toàn diện tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, khoa học - công nghệ, văn hóa, đối ngoại đến quân sự, tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mỗi lĩnh vực của nền quốc phòng toàn dân trở thành các “binh chủng” liên kết chặt chẽ với nhau, hợp thành mặt trận đấu tranh rộng lớn của cả nước.
Mỗi “binh chủng” có vị trí khác nhau, có “tầm” và vai trò quyết định khác nhau. Tuy nhiên, lực lượng vũ trang và đấu tranh quân sự vẫn giữ vai trò nòng cốt trong phương thức vận hành nền quốc phòng toàn dân thời bình cũng như trong phương thức vận hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc khi chiến tranh xảy ra. Đại hội XI của Đảng đã khẳng định phải “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận”.