Ký ức đói nghèo
Vượt quãng đường đèo dốc hơn 20km từ trung tâm huyện Bắc Yên, xuôi theo tỉnh lộ 112 lên xã Làng Chiều, nơi có độ cao hơn 1.700m so với mực nước biển, hỏi người già, trẻ nhỏ đường vào nhà ông Mang, ai ai cũng biết. Căn nhà 2 tầng, to, rộng nhất bản của ông mới xây xong, nằm sát bên vệ đường.
Gặp ông Mang, cảm nhận đầu tiên của chúng tôi về người đàn ông dân tộc Mông này là dáng người cao ráo, nhanh nhẹn, tính tình chân chất, dễ gần nhưng ý chí vô cùng mạnh mẽ. Sau những cái bắt tay thật chặt, ông Mang dẫn chúng tôi vào nhà. Ngôi nhà mới vẫn còn in mùi vôi, vữa.
Ngồi bên tách trà nóng, ông Mang bồi hồi nhớ lại những ngày gian khó: Tôi sinh ra và lớn lên trong gia đình đông anh em. Nhà tôi cũng như bao người Mông ở bản Cáo A này, cuộc sống khó khăn. Từ đời ông, đời bà đều đã gắn liền với những ngọn núi cao, đồi dốc, quanh năm mây mù bao phủ.
Ở nơi đây, người Mông chỉ biết phát nương, làm rẫy, chọc lỗ trồng bắp, trồng lúa, cả mùa vụ phó mặc cho ông trời muốn ra sao thì ra. Năm nào được mùa tạm đủ ăn, năm nào mất mùa là đói. Đất bạc màu, những cánh rừng xanh dần hết cây rồi trở nên trọc lốc, giàu đâu chẳng thấy, chỉ thấy cái đói, cái nghèo cứ bám diết lấy gia đình và bà con dân bản.
Cách đây hơn 10 năm trở về trước, làng Chiếu cũng như một số xã vùng cao của huyện Bắc Yên, từng là nơi ám ảnh đối với nhiều người. Khi đó, đường đi từ trung tâm huyện Bắc Yên lên làng Chiếu chỉ là con đường mòn nhỏ, hẹp, quanh co, vắt vẻo qua những sườn núi dốc, đi lại rất khó khăn. Nhà nào có công có việc xuống huyện hay đi chợ mua nhu yếu phẩm thì phải thức từ lúc gà gáy, đi bộ cả ngày trời, rồi kẽo kẹt gùi đồ hoặc thồ lên lưng ngựa ngược dốc trở về. Đường sá cách trở, cuộc sống của bà con người Mông như bị cách biệt với bên ngoài, cái đói, cái nghèo cứ mãi đeo bám. Nhưng giờ đã khác, bà con đồng bào Mông được Nhà nước đầu tư làm đường nhựa, điện thắp sáng, hướng dẫn cách làm ăn phát triển kinh tế gia đình… thay đổi cách nghĩ, cách làm cho bà con, thúc đẩy ý chí vượt khó vươn lên làm giàu, xây dựng cuộc sống ấm no.
Ngày trước, do nhà đông người, hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông Mang chỉ được đi học lớp xóa mù chữ 3 tháng, chỉ biết viết, biết đọc và tính nhẩm được ít con số. Sau này, do cuộc sống khó khăn bươn chải, làm đủ nghề kiếm sống, đi nhiều nơi được giao lưu tiếp xúc, học cái hay, cái tốt, cách làm hiệu quả từ những nơi khác, ông Mang quyết tâm thay đổi cách làm, nâng cao đời sống gia đình.
Quyết chí làm giàu
Năm 2000, một số cán bộ khuyến nông huyện lên vận động bà con chuyển đổi cơ cấu cây trồng và hướng dẫn bà con bản Mông trong xã ươm giống, trồng táo sơn tra. Năm 2002, ông Mang quyết định chuyển một phần đất trồng ngô, lúa sang trồng táo sơn tra với mong muốn thoát nghèo từ cây trồng này. Đến năm 2004, ông tăng diện tích lên 2ha, sau 4 – 5 năm sau sơn tra bắt đầu cho thu hoạch. Nhờ táo sơn tra được người tiêu dùng ở các thành phố lớn ưa chuộng nên bán được giá, gia đình bắt đầu có thu nhập và bớt dần khó khăn. Năm 2007, ông trồng thêm 2ha nữa nâng diện tích lên 4ha. Qua tham gia một số lớp tập huấn, đem kỹ thuật ứng dụng vào thực tế, thường xuyên cắt tỉa và phát quang cây cỏ dại, nên vườn táo của ông năm nào cũng trĩu quả.
Năm 2010, với số tiền tích góp được từ bán táo, ông Mang đầu tư mua một chiếc xe tải. Nhờ đó, ông vừa thu hái táo của gia đình, vừa thu mua táo cho bà con trong vùng vận chuyển bán cho một số thương lái ở các tỉnh Yên Bái, Phú Thọ, Hải Phòng, Điện Biên... Những năm táo được mùa, được giá, ông trúng lớn, lãi cả trăm triệu. Có vốn trong tay, ông tiếp tục đầu tư thuê nhân công cải tạo lại vườn táo. Dưới tán vườn táo, ông Mang trồng xen cây dong riềng với diện tích hơn 3ha. Do hợp với khí hậu, thổ nhưỡng nên cây dong riềng phát triển tốt, năng suất cao, chỉ tính riêng tiền bán dong riềng mỗi năm ông thu lãi từ 200 – 300 triệu đồng.
Cùng với táo sơn tra, cây dong riềng bắt đầu được người Mông ở các xã vùng cao Bắc Yên trồng nhân rộng với diện tích lớn. Ông Mang thu mua luôn cả dong riềng, “mùa táo bán táo, mùa dong bán dong”, vừa làm vừa tìm hiểu thị trường. Qua khảo sát một số nơi thấy việc sơ chế tinh bột dong mang lại hiệu quả kinh tế cao, lại có thể giúp người dân tiêu thụ được sản phẩm tại chỗ, năm 2013, ông quyết định đầu tư mua máy sơ chế tinh bột dong công suất lớn, mỗi ngày sơ chế cả chục tấn dong. Trung bình mỗi năm ông Mang thu mua và sơ chế từ 1,5 – 2 nghìn tấn dong cho bà con trên địa bàn. Công việc suôn sẻ, kinh tế gia đình ngày càng khá giả.
Tuy không phải là chuyên gia về nông nghiệp nhưng ông Mang có cách làm rất khoa học. Toàn bộ nước thải từ bã dong sau sơ chế được thu gom, sử dụng trở lại để tưới đất trồng dong và một số cây trồng khác thay thế cho phân bón hóa học. Không chỉ giảm được chi phí đầu tư mà làm đất trở nên màu mỡ, canh tác được lâu dài. Ngoài trồng táo, trồng dong, ông còn chăn nuôi thêm trâu, bò, lợn, gà vừa để bán, vừa phục nhu cầu sinh hoạt tại chỗ của gia đình, mang lại thu nhập ổn định. Đến nay, tổng thu nhập của gia đình ông Mang mỗi năm từ 700 – 800 triệu đồng, nhà ông trở thành hộ giàu có nhất vùng. Nhờ đó, nhiều hộ gia đình đã học tập kinh nghiệp, vươn lên thoát nghèo và có cuộc sống ngày càng khấm khá.
Với ý chí và lòng quyết tâm vượt khó, ông Sồng A Mang đã xây dựng được cơ ngơi bề thế, nương rẫy phủ xanh cây táo sơn tra, trở thành tấm gương tiêu biểu trong phong trào phát triển kinh tế xóa đói, giảm nghèo ở địa phương.