Phương hướng nhiệm vụ công tác tư tưởng trong thời kỳ phát triển mới của đất nước được Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng XIII xác định: "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả"[1]. Gần hai năm qua, khi triển khai các hoạt động tuyên giáo thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII chúng ta đã có những đổi mới nhất định về nội dung và phương thức hoạt động trên từng lĩnh vực của công tác tư tưởng như: Công tác lý luận, công tác tuyên truyền và cổ động. Tuy nhiên sự đổi mới này chưa dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận tổng kết thực tiễn các hình thức và phương pháp tiến hành công tác tư tưởng trong 35 năm đổi mới toàn diện đất nước, 10 năm thực hiện cương lĩnh 2011, 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII nhằm: Từ thống nhất nội hàm phương thức công tác tư tưởng đến đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân và xác định hệ thống các giải pháp đồng bộ, khả thi trong đổi mới mạnh mẽ phương thức công tác tư tưởng. Muốn có cơ sở khoa học và thực tiễn để tiến hành đổi mới mạnh mẽ phương thức công tác tư tưởng, chúng ta cần làm sáng tỏ một số vấn đề sau: Vì sao chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ phương thức công tác tư tưởng? Để đổi mới phương thức công tác tư tưởng, trước hết phải thống nhất quan niệm nội hàm về phương thức công tác có vị trí quan trọng hàng đầu này. Để đổi mới đạt mục tiêu, yêu cầu phải xác định đúng các quan điểm chỉ đạo đổi mới phương thức công tác tư tưởng. Xác định những nội dung phương thức cần tập trung đổi mới.
Vì sao chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ phương thức công tác tư tưởng?
Tình hình mới, nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ phát triển mới đòi hỏi chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ cả nội dung và phương thức công tác tư tưởng: Trong hơn một thập niên qua những biểu hiện như cuộc khủng hoảng kinh tế 2008-2009; số lượng các thỏa thuận quốc tế về thương mại và đầu tư giảm xuống mức thấp nhất kể từ thập niên 80 của thế kỷ XX; Nước Anh rời khỏi EU, Mỹ rời khỏi TPP, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung gia tăng cả cường độ và quy mô, bùng phát chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa đơn phương, chính sách chống nhập cư, phục hồi chính trị cường quyền, chủ nghĩa bảo vệ thương mại… đang cản trở và làm xuy yếu toàn cầu hóa. Đáng chú ý từ đầu 2020 đến nay đại dịch COVID-19 đã kích hoạt và đẩy nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng sâu rộng chưa từng có và đến nay vẫn khó dự báo vì cuộc khủng hoảng kinh tế rất sâu và rộng lần này còn chịu sự tác động của nhiều nhân tố như sự chuyển dịch sức mạnh của các quốc gia, mô hình phát triển, cơ cấu kinh tế, sự điều chỉnh của các chuỗi sản xuất và cung ứng, các thể chế và luật lệ của các tổ chức đa phương đã và đang hình thành. Dù vậy, chiều hướng chung của toàn cầu hóa hiện nay đang ở chặng giảm tốc, suy yếu nhưng không phải là sự cáo chung của toàn cầu hóa. Dù trong những năm tới, chính sách của nhiều nước nhất là Mỹ và một số nước lớn có thể tiếp tục xu hướng bảo hộ, hướng nội, co lại, dân túy, dân tộc chủ nghĩa, cứng rắn, cực đoan. Nhưng về bản chất của khuynh hướng này là Mỹ và một số nước khác đang chủ động làm chậm toàn cầu hóa lần thứ ba, để cơ cấu lại chuỗi giá trị toàn cầu, tập trung nguồn lực về Mỹ để phục hồi sức mạnh bị suy giảm, trên thực tế các cơ chế liên kết kinh tế thể hiện trong các Hiệp định thương mại tự do (FTA) vẫn đang tồn tại và đang được điều chỉnh hoặc hình thành FTA mới… thực tế này cho thấy toàn cầu hóa tiếp tục là một xu thế khách quan. Quá trình điều chỉnh toàn cầu hóa và liên kết kinh tế vẫn tiếp tục được thúc đẩy với những đặc điểm mới do nhu cầu phát triển kinh tế của các nước. Do vậy các nước sẽ xây dựng những tiêu chuẩn mới cho việc duy trì sự chu chuyển của các dòng hàng hóa, dịch vụ, lao động, công nghệ…, đồng thời áp dụng các biện pháp ngăn ngừa những nguy cơ tác động tiêu cực đến sự chu chuyển này. Dự báo có nhiều khả năng các quốc gia sẽ cùng xây dựng lại mô hình toàn cầu hóa dựa trên các nền kinh tế khu vực để thực hiện sự cân bằng giữa lợi ích quốc gia với lợi ích khu vực, quốc tế và đảm bảo cân bằng giữa tính hiệu quả và khả năng chống chịu của chuỗi cung ứng, giữa tăng trưởng kinh tế với khắc phục sự gia tăng bất bình đẳng.
+ Gần hai năm sau Đại hội XIII, tình hình và cục diện thế giới, khu vực và trong nước đang diễn ra như dự báo của Đảng ta trong Đại hội XIII: "Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp khó dự báo". Nhìn chung tình hình, bối cảnh, cục diện thế giới, khu vực diễn biến theo hướng phức tạp hơn, thách thức gay gắt hơn thể hiện tập trung trên những vấn đề chủ yếu sau:
+ Hòa bình, hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn. Khả năng chiến tranh và xung đột giữa các cường quốc khó xảy ra vì nó mang lại hậu quả khôn lường không chỉ cho các bên tham chiến, các khu vực liên quan mà sẽ là thảm họa của toàn nhân loại. Tuy nhiên trong những năm gần đây, trong xu hướng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh thì mặt cạnh tranh dẫn tới nguy cơ xung đột và xung đột đang gia tăng đáng kể. Tiêu biểu nhất của xu hướng này là chiến dịch quân sự ở Ucraina.
+ Quá trình toàn cầu hóa được thúc đẩy bởi hai động lực: Các cuộc cách mạng công nghiệp chuyển đổi căn bản nền tảng sản xuất và việc xóa bỏ các rào cản đối với các dòng chảy thương mại, đầu tư, thông tin, công nghệ, lao động. Do kết hợp hai động lực này toàn cầu hóa diễn ra theo các làn sóng. Qúa trình toàn cầu hóa cho đến nay đã diễn ra ba cao trào, xen giữa là các giai đoạn thoái trào. Mỗi cao trào là động lực cho một trật tự thế giới, mỗi đợt thoái trào đều là thời kỳ bất ổn và xung đột. Toàn cầu hóa lần thứ ba từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay. Toàn cầu hóa lần này đã tác động rất mạnh đến nền kinh tế toàn cầu, theo đó dòng hàng hóa, dịch vụ đầu tư, tiền tệ, lao động, thông tin, công nghệ, phương tiện giao thông…lan tỏa mở rộng thị trường cũng như lợi thế so sánh của các nền kinh tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin. Để điều tiết các xu hướng này, các "luật chơi" chung đã được hình thành, thể hiện tập trung trong các quy định của WTO, FTA… Tận dụng xu thế này, Mỹ và phương Tây cổ súy cho tự do hóa, tư nhân hóa, phi tập trung hóa kinh tế nhằm áp đặt mô hình phát triển của mình cho các nước. Toàn cầu hóa lần này tăng tốc và mở rộng đặc biệt mạnh mẽ sau chiến tranh lạnh (1991) nhờ sự gia nhập của các nền kinh tế chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Sự tăng tốc và mở rộng của toàn cầu hóa sau chiến tranh lạnh đã dẫn tới ba thay đổi nền tảng: Cán cân thanh toán toàn cầu đang mất cân đối nghiêm trọng, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc, Sự chuyển động ồ ạt của các ngành công nghiệp và công nghệ từ các nước phát triển sang các nước mới nổi làm gia tăng bất bình đẳng tại các nước phát triển. Cán cân quyền lực chuyển dịch về các nước mới nổi đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ, Nga thúc đẩy mạnh xu thế đa cực hóa trật tự thế giới.
Sự giảm tốc của toàn cầu hóa lần thứ ba đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng. Thương mại toàn cầu tăng trưởng chậm lại. Các dòng vốn đầu tư bị hút mạnh về thị trường Mỹ, dư địa phát triển của nhiều nước ngoại vi bị thu hẹp, nhất là với các quốc gia thực hiện mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu. Đợt thoái trào của toàn cầu hóa lần thứ ba này đã và đang xuất hiện sự bất ổn và xung đột ở một số khu vực… Tình trạng lạm phát gia tăng, khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng lương thực, thảm họa nhân đạo, chiến dịch quân sự ở Ucraina…là những minh chứng cho những nhận định trên.
Sự chuyển dịch quyền lực và sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn
Phù hợp với qui luật phát triển không đều, nên đến nay thế giới đã chứng kiến ba cuộc chuyển dịch quyền lực lớn làm thay đổi cơ bản đời sống quốc tế trên mọi mặt: chính trị quân sự, kinh tế, văn hóa. Cuộc chuyển dịch quyền lực lớn thứ nhất là sự trỗi dậy mạnh mẽ của châu Âu từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII, dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Cuộc chuyển dịch quyền lực lớn thứ hai là sự trỗi dậy mạnh mẽ của Mỹ bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945) Mỹ trở thành siêu cường chi phối trật tự quốc tế cho tới cuối thế kỷ XX. Từ thập niên cuối của thế kỷ XX đến hai thập niên đầu của thế kỷ XXI diễn ra sự suy yếu tương đối của Mỹ, Tây Âu, Nhật và sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số nước, nổi bật là Trung Quốc, Ấn Độ dẫn tới sự chuyển dịch quyền lực lần thứ ba trên phạm vi toàn cầu. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của các quốc gia mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga… thúc đẩy cục diện thế giới biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm nhanh hơn, chuyển trật tự thế giới từ đơn cực sau chiến tranh lạnh thành thế giới "Nhất siêu, đa cường".
Cục diện này phản ánh sự chuyển dịch sức mạnh của các quốc gia, trong đó có Mỹ và Tây Âu suy yếu tương đối, Trung Quốc vươn lên mạnh mẽ, Nga nỗ lực khôi phục vị trí cường quốc hàng đầu của mình. Trong bối cảnh này sự cọ sát, cạnh tranh chiến lược, điều chỉnh chiến lược, tập hợp lực lượng, tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn đang gia tăng tính quyết liệt, gay gắt hơn và tác động ảnh hưởng sâu rộng đến an ninh chính trị toàn cầu. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn hiện nay thể hiện giữa các cặp cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc, Mỹ - Nga, Trung Quốc - Ấn Độ. Trong các cặp này, cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung là cuộc cạnh tranh chiến lược tiêu biểu giữa một cường quốc mới "trỗi dậy" và một cường quốc đang "tại vị". Cuộc cạnh tranh này ngày càng gay gắt, khốc liệt tác động rất tiêu cực đến kinh tế, chính trị, an ninh toàn thế giới nhất là đối với châu Á - Thái Bình Dương, Biển Đông. Cho nên tạo ra nhiều thách thức mới khó lường đối với khu vực này trong đó có Việt Nam.
Các vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thông ngày càng nghiêm trọng
Trong ba bốn thập niên gần đây, tất cả các quốc gia trên thế giới, với các mức độ khác nhau đều chịu tác động tiêu cực và rất tiêu cực của các vấn đề toàn cầu như: Khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, phổ biến vũ khí hủy diệt, thảm họa thiên tai, thảm họa môi trường sinh thái, đói nghèo, dịch bệnh, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh mạng… Trong những vấn đề toàn cầu trên đang là những vấn đề gay cấn và là những thách thức to lớn thì vấn đề cạn kiệt tài nguyên nhất là năng lượng và nguồn nước đang là thách thức rất nghiêm trọng đến an ninh và phát triển của nhiều quốc gia, nhiều khu vực. Nhu cầu về tài nguyên đang gia tăng đối với tất cả các quốc gia và tăng vọt đối với các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển do đó cạnh tranh các nguồn tài nguyên đang rất gay gắt sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn.
Trong những vấn đề đang de dọa đến an ninh toàn cầu nêu trên, thì an ninh biển đứng trước những thách thức nghiêm trọng do cạnh tranh chiến lược, tranh chấp biển, đảo ngày càng quyết liệt. An ninh biển đang đe dọa trực tiếp đến an ninh các tuyến đường hàng hải và an ninh môi trường biển, an ninh các nguồn lợi hải sản.
Về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên sự hội tụ của trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật, hệ thống cảm biến và dữ liệu lớn, mạng viễn thông 5G, công nghệ Robot, thiết bị tự hành không người lái, công nghệ sinh học, công nghệ gen, công nghệ mới về năng lượng, điện toán lượng tử.
Tiến đề cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã xuất hiện từ trong giai đoạn cuối của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (1960-2000), nhưng chính cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009 đã tạo hiệu ứng kép vừa đẩy nhanh quá trình chọn lọc các công nghệ đột phá có tiềm năng lớn; Vừa giải phóng nguồn vốn lớn khỏi các lĩnh vực không còn lợi thế so sánh, thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư trên toàn cầu cho hoạt động nghiên cứu và ứng dựng các công nghệ mới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư buộc người ta phải xem xét lại hàng loạt các khái niệm, các dự báo như: Văn hóa mạng, mạng xã hội, thương mại điện tử, chính phủ điện tử, kinh tế chia sẻ, tiền ảo, nhà máy thông minh, thành phố thông minh hay từ phía tiêu cực như: Tin giả, tội phạm mạng, tấn công mạng, chiến tranh mạng… trên thực tế đang làm thay đổi sâu sắc đời sống xã hội. Sau hai thập niên, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã tác động sâu đưa tới những chuyển biến sâu sắc về mọi mặt như cơ cấu và phương thức sản xuất – kinh doanh, sự vận hành của hệ thống tài chính tiền tệ, cơ cấu và chất lượng lao động, phương cách làm việc và lối sống của con người, phương thức học tập, chữa bệnh, phương tiện và phương thức bảo đảm quốc phòng an ninh. Nền kinh tế thế giới đang bước vào thời đại mới về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mang đến những thay đổi sâu sắc trong quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội.
Cục diện châu Á-Thái Bình Dương, hơn ba thập kỷ sau chiến tranh lạnh, là địa bàn cạnh tranh địa chiến lược của các nước lớn nhưng đã hóa giải được các nguy cơ xung đột, vượt qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế, duy trì xu thế hòa bình và hội nhập, trở thành đầu tầu tăng trưởng kinh tế thế giới. Châu Á-Thái Bình Dương sẽ tiếp tục là khu vực phát triển hàng đầu với sự hiện diện của nhiều nước lớn và các nền kinh tế năng động, nằm trên tuyến hàng hải, hàng không sôi động bậc nhất thế giới, nơi hiện diện các liên minh, tổ chức, thể chế đa phương. Những năm gần đây và sắp tới cạnh tranh quyền lực, tranh chấp chủ quyền biển đảo ở khu vực này diễn ra căng thẳng, phức tạp và quyết liệt hơn. Tập hợp lực lượng của các cường quốc ở khu vực này diễn ra rất phức tạp, các điểm nóng diễn biến khó lường. Đặc biệt khu vực này đang trở thành địa bàn trọng điểm của cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung, đang diễn ra những nỗ lực tập hợp lực lượng của hai cường quốc này.
Trong khi đó các cường quốc như Nhật Bản, Ấn Độ, Australia… cũng đang dẫn dắt một số tập hợp lực lượng không có cả Mỹ và Trung Quốc. Trước khi tiến hành đổi mới phương thức công tác tư tưởng cần thực hiện có hiệu quả chủ trương, định hướng phát triển thứ nhất trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030: "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy."[5]. Dù sau 35 năm đổi mới tư duy, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
Nhưng quả thật vẫn còn không ít trong cán bộ Đảng viên những quan niệm lạc hậu, bảo thủ nên còn không ít hạn chế trong quán triệt tiếp thu những quan niệm mới của Đảng trong văn kiện Đại hội XIII và vẫn còn một bộ phận cán bộ, Đảng viên còn dừng lại ở tư duy kinh nghiệm nên thường hiểu biết sự vật, hiện tượng ở bên ngoài của nó, chỉ ghi nhận những gì đã xảy ra và thường hướng về quá khứ, và có thói quen phân biệt đúng - sai, thật - giả, phải – trái bằng những kinh nghiệm thu được từ thực tiễn đã qua không chú ý đầy đủ tới những điều kiện cụ thể, không phân tích được bản chất và các quan hệ nội tại của sự vật hiện tượng; không chú ý tới sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Chủ nghĩa kinh nghiệm thường gắn với chủ nghĩa giáo điều, không chỉ làm theo sách vở, thoát ly thực tiễn, sao chép dập khuôn kinh nghiệm người khác, nước khác bất chấp các điều kiện khác nhau hoặc cứ nghĩ và làm theo kiểu "xưa sao, nay vậy" không chịu tìm tòi, cải tiến đổi mới khi thực tiễn đang vận động.
Do đó phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy để vừa khắc phục các biểu hiện của tư duy kinh nghiệm, của chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều, vừa tập trung bồi dưỡng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ Đảng viên nhất là cho Bí thư, cấp ủy và đội ngũ cán bộ tư tưởng chuyên trách. Chỉ có tư duy mới, tư duy lý luận, tư duy khoa học không những giúp cho con người hiểu biết sâu sắc đời sống xã hội hiện tại mà còn dự đoán một cách khoa học sự phát triển của xã hội tương lai. Tư duy lý luận mang tính tích cực sáng tạo trong quá trình tìm kiếm trí thức mới, phương pháp mới, hình thức mới, giải pháp mới để chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống, tận dụng mọi điều kiện thuận lợi, thời cơ và vận hội, hóa giải thành công, vượt qua mọi khó khăn thách thức.
Với tinh thần này, đổi mới mạnh mẽ tư duy trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trước hết là trong Bí thư, cấp ủy, trong đội ngũ cán bộ tư tưởng chuyên trách sẽ mở đường, tạo ra không gian mới, động lực mới cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Đổi mới mạnh mẽ tư duy trong các cơ quan tư tưởng, các thiết chế tư tưởng trong đội ngũ cán bộ tư tưởng chuyên trách chắc chắn sẽ tạo không gian và động lực mới thúc đẩy sáng tạo ra những nội dung mới, phương pháp hình thức mới của công tác tư tưởng.
Muốn đổi mới phương thức công tác tư tưởng, dưới ánh sáng của tư duy mới chúng ta phải kiểm kê đánh giá một cách khách quan: Những phương pháp hình thức nào đã lạc hậu lỗi thời phải kiên quyết loại bỏ, thay thế. Những hình thức, phương pháp nào vẫn đúng nhưng chúng ta làm sai, làm hình thức chủ nghĩa thì chúng ta cần kiên quyết làm lại cho đúng. Nhưng phương pháp hình thức nào cần được sáng tạo ra để đáp ứng những yêu cầu mới của công tác tư tưởng trong thời kỳ mới. Và rất quan trọng là vận dụng kịp thời những thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để hiện đại hóa, số hóa, mạng hóa các phương pháp, hình thức, các công cụ phương tiện công tác tư tưởng.
Để kiểm kê, rà soát đánh giá đúng tính chất của các phương pháp, hình thức công tác tư tưởng đang hiện hành chúng ta phải quán triệt và thực hiện nghiêm quan điểm tư tưởng: Hãy nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật. Chỉ có nhìn thẳng vào sự thật nói đúng sự thật chúng ta mới đánh giá được phương pháp nào hình thức nào của công tác tư tưởng còn đúng đang phát huy hiệu quả, phương pháp nào, hình thức nào vẫn đúng nhưng thực tế ta làm hình thức thì cần kiên quyết làm lại cho đúng, phương pháp hình thức nào lạc hậu, lỗi thời cần loại bỏ, cần sáng tạo ra phương pháp mới nào để thay cái cũ… Vì hiện nay chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, bệnh chạy theo thành tích, che dấu khuyết điểm sai lầm với các mức độ khác nhau nhưng vẫn còn biểu hiện rất nhiều trong công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, cả trong hoạt động truyền bá lý luận chính trị, đường lối chính sách, cả trong hoạt động cổ vũ hành động, hoạt động tư tưởng.
Chỉ có nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật thì hoạt động nghiên cứu lý luận tổng kết thực tiễn mới đánh giá đúng tình hình, nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng, mới nắm được quy luật vận động của xã hội, mới tổng kết được thực tiễn cách mạng nhằm xây dựng hệ thống quan điểm lý luận và xây dựng các luận cứ khoa học cho việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính sách; đấu tranh phản bác các trào lưu tư tưởng sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ cương lĩnh đường lối của Đảng. "Chỉ nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật" chúng ta mới kịp thời nắm bắt, đánh giá đúng thực trạng tư tưởng của cán bộ Đảng viên và nhân dân chúng ta mới xác định được các giải pháp hiệu quả để truyền bá hệ tư tưởng, truyền bá cương lĩnh, đường lối, xây dựng thế giới quan, xây dựng niềm tin và cổ vũ cán bộ Đảng viên và nhân dân tự giác tích cực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Đổi mới phương thức công tác tư tưởng gắn liền với mở rộng hoàn thiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở thực hiện có hiệu quả: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng; Với công tác tư tưởng phải tập trung thực hiện có hiệu quả quyền được thông tin, tăng cường đối thoại, tăng cường công khai minh bạch.
Mỹ - Trung tranh hùng đặt châu Á-Thái Bình Dương trước thách thức bị chia rẽ, đe dọa xu thế hợp tác và hội nhập khu vực, kích động bùng phát mâu thuẫn giữa các nước cũng như mâu thuẫn nội bộ từng quốc gia. Thời gian qua, hầu hết các tranh chấp tại khu vực đều lần lượt nóng lên: Bán đảo Triều Tiên, eo biển Đài Loan, Biển Hoa Đông, Biển Đông.
Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột kinh tế, an ninh, văn hóa xã hội tiếp tục phát huy vai trò trung tâm thông qua cơ chế, các diễn đàn ARE, ADMM+, Shangri-La, EAS… để duy trì hòa bình ổn định khu vực, vai trò như một thị trường chung, một cộng đồng kinh tế ngày càng nhất thế hóa trong phát triển kinh tế, nhưng ASEAN đang đứng trước nhiều thách thức:
+ Toàn cầu hóa mất đà, kinh tế Trung Quốc giảm tốc, chủ nghĩa bảo hộ mới của Mỹ và phương tây, nguy cơ bong bóng tài chính Mỹ… đều có thể trở thành ngòi nổ cho một cuộc khủng hoảng kinh tế hay an ninh.
+ Tranh giành ảnh hưởng và sự lôi kéo của các loại hình tập hợp lực lượng khác nhau, đặc biệt là sự tranh giành ảnh hưởng và lôi kéo, tập hợp lực lượng của Mỹ - Trung đã đặt ra nhiều thách thức trong ứng xử đối ngoại đồng thời khiến ASEAN đối mặt với nhiều khó khăn thách thức hơn. Trên thực tế, tính thống nhất của ASEAN có dấu hiệu giảm sút, vài trò trung tâm của ASEAN bị thách thức ngày càng lớn.
Tình hình trong nước: Sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
"Trong những năm tới, Việt Nam sẽ hội nhập sâu rộng hơn và phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Trong tình hình kinh tế phát triển chưa bền vững còn nhiều hạn chế, yếu kém lại đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức mới do tác động của dịch COVID-19, do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, do xu hướng già hóa dân số tăng nhanh, do tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa tăng mạnh; đặc biệt do biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gay gắt, phức tạp. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra đến nay vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt, phức tạp hơn trên cả bốn nguy cơ: Nguy cơ tụt hậu rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn. Có biểu hiện chưa quan tâm đúng mức bảo đảm phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, bảo đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội trong phát triển kinh tế thị trường; chưa đảm bảo phát triển tổng thể, đồng bộ các vùng miền địa phương theo lợi thế so sánh và phát huy điều kiện kinh tế đặc thù; Tham nhũng lãng phí quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "Tự diễn biến" "Tự chuyển hóa" trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta"[2]. Trong những nguy cơ thách thức mới nảy sinh, Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: "Bảo vệ độc lập chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết đồng thời là những thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời gian tới".[3]
Bối cảnh, cục diện tình hình thế giới khu vực, trong nước được trình bày trên có cả thuận lợi, thời cơ cũng như khó khăn thách thức đan xen. Đáng chú ý một số thách thức cũ phát triển nghiêm trọng hơn; một số nguy cơ thách thức mới nảy sinh nhưng rất phức tạp và quyết liệt. Tất cả đang tác động nhiều chiều rất phức tạp đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Để tận dụng cho được thời cơ vận hội, hóa giải và vượt qua mọi khó khăn thách thức cả cũ và mới, Đảng ta phải giải quyết thành công nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới: "Đòi hỏi toàn Đảng ta phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính xác kịp thời diễn biến của tình hình chủ động ứng phó kịp thời mọi tình huống nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được, đưa đất nước ta vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững"[4]. Để đáp ứng những đòi hỏi trên, công tác tư tưởng – Công tác có tầm quan trọng hàng đầu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng phải tiếp tục đổi mới cả nội dung và phương thức công tác của mình.
Để đổi mới mạnh mẽ cả nội dung và phương thức công tác tư tưởng trước hết cần thống nhất quan niệm về công tác tư tưởng.
Trong lịch sử 92 năm hoạt động tư tưởng của Đảng, cơ quan tham mưu cho các cấp ủy từ trung ương đến cơ sở từ 1930 đến nay có tên gọi khác nhau: Bộ tuyên truyền cổ động. Ban tuyên truyền cổ động. Ban tuyên truyền, Ban văn giáo. Ban tuyên huấn, Ban khoa giáo, Ban văn hóa văn nghệ. Ban tư tưởng văn hóa, Ban khoa giáo. Ban tuyên giáo. Các cơ quan tham mưu dù tên gọi khác nhau, nhưng tất cả đều là tham mưu cho các cấp ủy Đảng về công tác tư tưởng. Hay nói một cách khác, chức năng nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu của các cơ quan này là Tham mưu xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, Tham mưu hoạt động nghiên cứu lý luận tổng kết thực tiễn phát triển chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Tham mưu chỉ đạo cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; Tham mưu chỉ đạo truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng; Tham mưu chỉ đạo xây dựng phát triển nền văn hóa và con người Việt Nam; Tham mưu chỉ đạo phong trào hành động cách mạng, phong trào thi đua yêu nước.
Vì thế cần thống nhất quan niệm về công tác tư tưởng. Con người có nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Để thỏa mãn nhu cầu vật chất, con người tổ chức các quá trình sản xuất vật chất. Để thỏa mãn nhu cầu tinh thần, con người cũng có quá trình sản xuất ra các sản phẩm tinh thần. Khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp, giữa các giai cấp đối kháng về lợi ích căn bản cũng nảy sinh nhu cầu sản xuất ra hệ tư tưởng riêng để phản ánh, luận chứng cho địa vị và bảo vệ lợi ích giai cấp, chống lại giai cấp đối kháng. Từ đây lịch sử bắt đầu qua trình đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ. Từ đó đẻ ra nhu cầu sản xuất và truyền bá các hệ tư tưởng. Quá trình sản xuất và truyền bá Hệ tư tưởng làm xuất hiện các quan hệ tư tưởng và các quá trình tư tưởng. Quan hệ tư tưởng là quan hệ giữa người với người trong qua trình sản xuất và truyền bá hệ tư tưởng. Các quá trình tư tưởng là quá trình sản xuất hệ tư tưởng (Hình thành và phát triển hệ thống quan điểm lý luận), quá trình tái sản xuất hệ tư tưởng (Truyền bá hệ tư tưởng), quá trình biến tư tưởng thành sức mạnh vật chất, thành hành động của con người (vật chất hóa hệ tư tưởng). Vì vậy trong tiến trình lịch sử, công tác tư tưởng suất hiện và tồn tại khi có các điều kiện sau:
+ Có hệ tư tưởng của giai cấp và có truyền bá đấu tranh tư tưởng.
+ Có các thiết chế tư tưởng bao gồm: Thiết chế nghiên cứu sáng tạo, thiết chế truyền bá, lưu giữ hệ tư tưởng và thiết chế đào tạo các nhà tư tưởng.
+ Có đội ngũ những người làm công tác tư tưởng lấy hoạt động nghiên cứu, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng cho một giai cấp nhất định làm nghề nghiệp của mình.
Do vậy, công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng nhằm hình thành phát triển truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của Đảng cộng sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, động viên cổ vũ tính tích cực tự giác sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đối với Đảng ta, công tác tư tưởng là bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo cách mạng của mình. Công tác tư tưởng có trọng trách trực tiếp xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức. Tiến hành công tác tư tưởng nhằm vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chuẩn bị cơ sở khoa học thực tiễn cho việc hình thành cương lĩnh đường lối, chính sách trong từng thời kỳ. Truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho các cán bộ, đảng viên và nhân dân đem lại cho họ sự giác ngộ về thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, biến nó thành niềm tin, lý tưởng, lẽ sống, thành nguyên tắc đạo đức, tình cảm cách mạng. Cổ vũ động viên tính tích cực, tự giác sáng tạo của các cán bộ đảng viên và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốcViệt Nam xã hội chủ nghĩa. Công tác tư tưởng còn góp phần quan trọng vào xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, giáo dục bồi dưỡng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức lối sống và nhân cách.
Công tác tư tưởng của Đảng ta là một tổng thể hoạt động với ba quá trình bộ phận sau: quá trình vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành cương lĩnh, đường lối trong từng thời kỳ. Quá trình truyền bá Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, chính sách, quá trình hiện thực hóa cương lĩnh đường lối chính sách. V. Lenin gọi một cách tương ứng ba quá trình này là công tác lý luận, công tác tuyên truyền, công tác cổ động. Ba quá trình hay ba hình thái là ba bộ phận cấu thành công tác tư tưởng. Các hình thái công tác tư tưởng: Công tác lý luận, công tác tuyên truyền, công tác cổ động có mối quan hệ nội tại với nhau, tác động biện chứng lẫn nhau, là những quá trình bộ phận của cùng một tổng thể hoạt động tư tưởng. Đã là một hoạt động thì bao giờ cũng do một chủ thể tiến hành và tác động đến một khách thể nhất định, nhằm mục đích đặt ra và với hiệu quả nào đó. Và muốn đạt mục đích, hoạt động đó phải có nội dung và được thực hiện bằng các phương thức (phương pháp và hình thức) phương tiện nhất định. Do đó phương thức công tác tư tưởng là các phương pháp, hình thức tiến hành các hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; Các hoạt động tuyên truyền và cổ động kiên định nền tảng tư tưởng, thực hiện, cương lĩnh đường lối chính sách trong từng thời kỳ. Quan niệm về đổi mới phương thức công tác tư tưởng. Đổi mới ở đây không phải là sự phủ định sạch trơn toàn bộ phương thức đang vận hành. Đây là sự phủ định biện chứng. Vì cuộc sống liên tục vận động, đối tượng công tác tư tưởng cũng không ngừng vận động phát triển, cho nên chúng ta phải đổi mới các phương pháp tiến hành các hoạt động tư tưởng để đạt mục đích đề ra. Trong phương thức công tác tư tưởng đang vận hành có những phương pháp, hình thức, phương tiện hoạt động tốt, có hiệu quả cao, ta phải tiếp tục hoàn thiện và phát huy; có phương pháp, hình thức nào vẫn đúng nhưng ta làm sai thì ta phải kiên quyết sửa sai làm lại cho đúng có hiệu quả cao, còn có phương pháp, hình thức, phương tiện nào đã lạc hậu, lỗi thời, không còn tác dụng thì ta dứt khoát loại bỏ, có phương pháp hình thức nào bộc lộ một vài hạn chế thì ta bổ sung, hoàn thiện cho tốt. Đổi mới phương thức công tác tư tưởng là phải có phủ định, có kế thừa, có sửa sai, có bổ sung, có phát triển sáng tạo để chúng ta hoàn thiện phương thức công tác tư tưởng mới góp phần thực sự nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng trong thời kỳ mới. Từ thực tiễn công tác tư tưởng trong những năm qua, từ đặc điểm bối cảnh cục diện tình hình mới, xuất phát từ nguyên tắc toàn Đảng làm công tác tư tưởng; trước hết là Bí thư, cấp ủy và đội ngũ cán bộ tư tưởng chuyên trách, xin được gợi mở một số vấn đề sau:
- Một trong ba điều kiện cơ bản để công tác tư tưởng xuất hiện, tồn tại và phát triển đó là phải có đội ngũ những người làm công tác tư tưởng lấy hoạt động nghiên cứu, phát triển truyền bá hệ tư tưởng cho mỗi giai cấp nhất định làm nghề nghiệp của mình. Hoạt động công tác tư tưởng là một khoa học, một nghệ thuật, một nghề. Đội ngũ cán bộ tư tưởng chuyên trách là người trực tiếp thực hiện đổi mới tư duy, đổi mới phương thức (phương pháp và hình thức) công tác tư tưởng. Do đó để đổi mới phương thức công tác tư tưởng, trước hết cần kiện toàn các thiết chế đào tạo các cán bộ nghiên cứu lý luận, các cán bộ tuyên truyền, cổ động, các nhà văn hóa, nhà báo, văn nghệ sỹ đương chức gắn với việc bổ sung hoàn thiện chương trình đào tạo và phương thức đào tạo những cán bộ tư tưởng trong thời kỳ mới. Đồng thời với việc làm trên phải mở lớp bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiên cứu, cán bộ tuyên truyền, cổ động, các giảng viên lý luận chính trị các báo cáo viên, các nhà báo, văn nghệ sỹ. Trong chương trình bồi dưỡng này cần giành một phần quan trọng để học tập nghiên cứu chuyên đề đổi mới tư duy và đổi mới phương thức công tác tư tưởng.
Do tầm quan trọng hàng đầu của đổi mới tư duy, đổi mới phương thức công tác tư tưởng trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, kiến nghị Ban Bí thư Trung ương cần ra một chỉ thị về vấn đề rất quan trọng bức thiết và rất khó này. Thực hiện nghiêm túc chỉ thị này, toàn Đảng ta sẽ đổi mới mạnh mẽ tư duy, đổi mới mạnh mẽ phương thức công tác có tầm quan trọng hàng đầu này nhất định sẽ tạo ra không gian mới, động lực mới để thực sự nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng phục vụ thắng lợi sự nghiệp xây dựng phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.