Ông là Trần Hiệu, tên thật là Vũ Văn Địch, tức Hoàng Mỹ, nguyên Phó Giám đốc Sở Công an Bắc Bộ, Cục trưởng Tình báo đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, Giám đốc đầu tiên của “Nha liên lạc” - Cơ quan Tình báo Chiến lược trực thuộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Người đã góp phần kiến tạo những nhà tình báo chiến lược như Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn, Đặng Trần Đức, Lê Hữu Thúy...
Trần Hiệu sinh ngày 30 tháng 4 năm 1914 tại xóm Gianh - làng Phúc Lâm - huyện Mỹ Đức - tỉnh Hà Đông (Hà Nội ngày nay). Sinh ra, lớn lên trong một gia đình trung nông theo Nho học có truyền thống yêu nước và giàu tình yêu quê hương. Năm 1926, khi mới 12 tuổi ông đã tích cực tham gia phong trào yêu nước tại quê nhà và trực tiếp tham dự lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh ở trường làng. Tháng 6 năm 1929, khi đang là học sinh lớp nhì đệ nhất cấp ở trường Bờ Sông (Hà Nội), ông được kết nạp vào tổ chức thanh niên cộng sản. Sau đó Trần Hiệu đi học nghề thợ nguội ở xưởng Tân Thành, phố Hàng Nón (Hà Nội), mùa hè năm 1935, ông ra Hải Phòng học tiếp nghề sửa chữa xe ô tô ở Trường kỹ nghệ thực hành. Tại đây, ông tham gia làm báo bí mật với các đồng chí Nguyễn Quyết, Vũ Đức Toa... được khoảng 10 tháng thì bị nhà trường phát hiện và đuổi học.
Trở về Hà Nội, Trần Hiệu tham gia hoạt động trong phong trào Mặt trận dân chủ, Hội ái hữu và Đoàn thanh niên dân chủ. Năm 1937, ông được giao nhiệm vụ phụ trách Phòng quản trị tờ báo Thế giới, tiếng nói của Đoàn thanh niên dân chủ lúc bấy giờ. Năm 1938, ông đã được các đồng chí Trường Chinh, Đào Duy Kỳ giới thiệu vào Đảng Cộng sản Đông Dương và tham gia sinh hoạt trong chi bộ công khai tại Hà Nội.
Hành trình trở về Tổ quốc từ lao ngục của kẻ thù
Tháng 9 năm 1939, Trần Hiệu bị thực dân Pháp bắt, kết án tù và giam giữ tại nhà lao Sơn La, đến tháng 9 năm 1940 ông bị đưa về biệt giam ở xà lim của Sở mật thám Hà Nội. Đầu năm 1941, thực dân Pháp đày ông lên nhà lao Bắc Mê ở một vùng heo hút, rừng thiêng nước độc của tỉnh Hà Giang. Tại đây, ông và các đồng chí của ta chẳng những không khuất phục trước chế độ biệt giam hà khắc và điều kiện cực kỳ khắc nghiệt. Ngược lại, họ còn mau chóng thành lập chi bộ, biến lao tù của thực dân thành trường học cho cách mạng, chủ động lãnh đạo bạn tù đấu tranh chống khủng bố và đòi cải thiện đời sống trong lao.
Hoạt động của chi bộ đã có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng ở địa phương và các địa bàn lân cận, góp phần biến một số làng bản trong vùng trở thành cơ sở cách mạng trong giai đoạn 1940 - 1945, buộc thực dân Pháp phải đưa ông và một số đồng chí về lại nhà lao Sơn La. Tại đây, Trần Hiệu và các đồng chí của ông đã tham gia tuyệt thực để phản đối chế độ thực dân. Trung tuần tháng 6 năm 1941, ông cùng 7 đảng viên cộng sản và 3 chính trị phạm khác bị bọn Pháp đẩy lên tàu hoả, đưa vào Sài Gòn rồi xuống tàu thuỷ, đem đi đày tại đảo Madagascar (châu Phi). Buộc phải xa xứ, xa tổ chức và gia đình mà chưa biết ngày về, song ông vẫn lạc quan, gửi trọn niềm tin vào tương lai tươi sáng và sự thành công cách mạng.
Tại trại tù Madagascar, Trần Hiệu và các đồng chí của mình vẫn trung kiên một lòng với cách mạng, quyết không lùi bước hoặc thui chột ý chí đấu tranh như ý đồ thâm hiểm của kẻ thù. Năm 1942, sau khi quân Anh đánh chiếm Madagascar từ tay chính phủ bù nhìn sở tại, bàn giao lại cho lực lượng của Đờ Gôn thì các tù nhân Việt Nam đã được trả tự do. Trong thời gian chưa tìm được đường về nước, Trần Hiệu và các đồng chí của mình đã tận tình gắn bó, giúp đỡ nhiều cho nhân dân bản địa. Vì vậy, mà các ông đã được nhân dân bản địa và chính quyền nước sở tại vô cùng quý mến, yêu thương.
Tháng 3 năm 1943, quân Đồng minh Anh - Pháp gọi một số cựu tù nhân người Việt tại Madagascar nhập ngũ và tham gia phục vụ trong quân đội liên hiệp Anh - Pháp. Nắm bắt thời cơ, anh em cộng sản tại đây liền nhóm họp và đưa ra nhận định “Hổ phải được trở về rừng thì mới là hổ”. Từ đó, họ quyết định lấy lý do muốn về nước tham gia chống phát xít Nhật để tranh thủ con đường của bọn Anh - Pháp để tìm cơ hội trở về Tổ quốc. Kết quả đến ngày 04 tháng 6 năm 1943, Phan Bôi, Tô Gĩ và Nguyễn Văn Phòng được gọi nhập ngũ. Tiếp đó, đến tháng 9 cùng năm, Trần Hiệu và 12 đồng chí khác đã được nhập ngũ với tên gọi là “Quân chí nguyện Đông Dương” của lực lượng dưới quyền của tướng Đờ Gôn. Từ đây,Trần Hiệu và các đồng chí của mình đã vừa vận động binh lính người Việt, vừa tìm cách tranh thủ, thuyết phục bọn Pháp để bảo toàn đội ngũ và sớm có cơ hội trở về với quê hương, đất nước.
Đến đầu năm 1944, Trần Hiệu, Nguyễn Văn Ngọc và Nguyễn Văn Phòng đã được quân Anh đưa tới Kenya, rồi sang Ấn Độ. Tại đây, Trần Hiệu gặp lại các đồng chí của mình là Phan Bôi, được Phan Bôi và được họ cho biết người Anh có định dùng họ trong các chương trình phát thanh ở Sydney (Úc), San Francisco (Mỹ) và New Delhi (Ấn Độ). Tuy nhiên, vì biết Anh - Mỹ đang chống cộng sản và rồi sớm muộn gì chúng cũng sẽ chống Liên Xô nên họ đã tìm mọi cách để thoái thác. Cuối cùng, người Anh đã thay đổi ý định và sử dụng các ông sang hoạt động tình báo. Đồng thời, tiến hành huấn luyện họ về lý thuyết hoạt động tình báo, cách đánh moóc-xơ và kỹ thuật mật mã.
Tháng 3 năm 1945, một máy bay B-29 của quân Anh đã chở Trần Hiệu, Nguyễn Văn Ngọc và Nguyễn Văn Phòng bay từ Dhaka (Bangladesh), qua vịnh Bengal (Ấn Độ), vịnh Thái Lan, biển Đông, vịnh Bắc Bộ và vào châu thổ Sông Hồng để thực hiện kế hoạch nhảy dù xuống Miếu Môn, khu vực nằm giữa hai tỉnh Hà Đông và Hoà Bình, nhưng vì pháo phòng không Nhật bắn, lại có sương mù nên buộc phải quay về. Một tháng sau, hành trình cũ lặp lại và cả ba đã nhảy dù xuống làng Tiên Lữ - huyện Quốc Oai - tỉnh Hà Đông. Tuy vùng này có quân Nhật chiếm đóng, nhưng nhờ được nhân dân ta che chở và giúp đỡ nên họ đã tìm về được nhà Trần Hiệu tại làng Phúc Lâm - huyện Mỹ Đức - Hà Nội ngày nay.
Không lâu sau đó, họ đã bắt liên lạc được với Xứ uỷ Bắc Kỳ, Phó bí thư Xứ uỷ Trần Quốc Hoàn đã đưa Nguyễn Văn Phòng đi gặp Tổng Bí thư Trường Chinh. Tổng Bí thư động viên “Các đồng chí đã lợi dụng được bọn đế quốc, thực dân để trở về với Đảng và tham gia hoạt động cách mạng”. Lúc này, Trần Hiệu được giao nhiệm vụ ẩn náu tại một ngôi chùa ở xóm La Dương - xã La Phù - huyện Hoài Đức với ba nhiệm vụ chính đó là “Tiếp tục giữ liên lạc bình thường với người Anh, thực hiện liên lạc bằng điện đài giữa Xứ uỷ và Trung ương. Đồng thời, chuẩn bị nội dung, chương trình để mở lớp huấn luyện về trinh sát quân sự cho Xứ ủy theo ý định của cấp trên”.
Đến tháng 8 năm 1945, Trần Hiệu tham gia chỉ đạo khởi nghĩa ở Hà Đông và là người đại diện phía cách mạng để tiếp nhận sự bàn giao chính quyền từ Tổng đốc Hà Đông Hồ Đắc Điếm. Sau đó ông được cử phụ trách Phòng án Chính trị, rồi Phó giám đốc Sở Công an Bắc Bộ. Trong thời gian này, Trần Hiệu đã tham gia chỉ đạo lực lượng công an trấn áp có hiệu quả bọn phản động và tay sai của Tàu Tưởng; kịp thời phát hiện sớm thực dân Pháp dựa vào bọn Đại Việt, Quốc dân đảng để âm mưu bắt gọn Chính phủ ta nhân lễ duyệt binh kỷ niệm ngày quốc khánh 14 tháng 7 của Pháp. Ông cũng đã tham gia chỉ đạo trong phá vụ án Ôn Như Hầu, tiêu diệt bọn phản động Đại Việt, Quốc dân đảng tại Hà Nội.
Thủ trưởng đầu tiên của ngành Tình báo Quốc phòng Việt Nam
Ngày 20 tháng 3 năm 1947 Cục Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy chính thức được thành lập và Trần Hiệu đã có mặt trong đội ngũ những người làm công tác tình báo của Quân đội ta ngay từ ngày đầu. Ngày 20 tháng 1 năm 1948, Trần Hiệu được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ký Sắc lệnh số 108/SL cử ông đảm trách chức vụ Cục trưởng Cục Tình báo, trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam. Đến tháng 4 năm 1950, Cục Tình báo chính thức giải thể, ông được cử sang làm Phó giám đốc Nha Công an Việt Nam kiêm Trưởng ty Tình báo - Nha Công an.
Ngày 15 tháng 7 năm 1951, cơ quan Tình báo Chiến lược của Đảng và Chính phủ với tên gọi là Nha liên lạc, trực thuộc Thủ tướng phủ được thành lập, Trần Hiệu được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bổ nhiệm giám đốc. Ngày 10 tháng 6 năm 1957, Nha liên lạc hợp nhất với Cục Quân báo - Bộ Tổng tham mưu thành Cục Tình báo - Cơ quan Tình báo Chiến lược toàn diện của Đảng và Quân đội ta lúc bấy giờ, ông tiếp tục được bổ nhiệm Cục trưởng. Đến năm 1958, ông được phong quân hàm đại tá.
Là vị thủ trưởng đầu tiên và liên tiếp trong 13 năm, ông đã có nhiều cống hiến, đóng góp lớn vào việc xây dựng tổ chức, phát triển lực lượng và triển khai hoạt động. Đồng thời, kiên trì thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Tình báo Chiến lược. Nhất là thông qua việc mở các hội nghị toàn quốc, hội nghị công tác, tổ chức các lớp bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ chuyên ngành, ông đã có nhiều đóng góp to lớn vào quá trình tạo nên một thế hệ cán bộ tình báo giỏi vừa hồng vừa chuyên, phát huy được tác dụng trong nhiều năm sau. Đặc biệt, ông là người có cặp mắt tinh tường nhìn và phát hiện ra tố chất của người chỉ huy tình báo có tầm nhìn chiến lược “Mười Hương”.
Năm 1960, sau Đại hội III của Đảng, Trần Hiệu được bổ nhiệm Phó viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao. Khi nhận nhiệm vụ, ông đã trình bày rõ quan điểm của mình với cấp trên “Công việc này mới mẻ quá, ngoài sức của tôi, muốn làm được phải có ít nhất hai bằng đại học chính trị và luật” song bản thân ông cũng tự xác định “Đã là đảng viên cộng sản thì dù được giao nhiệm vụ khó khăn, mới mẻ tới đâu cũng phải đem hết sức mình ra để tìm hiểu, nắm bắt và thực hiện cho có kết quả”.
Trong quá trình đó, vừa làm, vừa học hỏi, rút kinh nghiệm, chỉ sau một thời gian ngắn ông đã nắm vững công tác mới, được Viện trưởng Hoàng Quốc Việt tín nhiệm, cấp dưới nể phục. Trên cương vị Bí thư Đảng uỷ dân - chính - đảng khối các cơ quan trực thuộc Trung ương, ông đã góp phần quan trọng giúp Ban Bí thư Trung ương làm tốt các mặt công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức và kiểm tra nghị quyết 9 của Bộ Chính trị (khoá III). Năm 1984, khi vừa tròn 70 tuổi, sau 23 năm làm Phó viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, ông chính thức nghỉ hưu. Trong quá trình công tác, Trần Hiệu đã được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, nhiều huân, huy chương và phần thưởng cao quý khác.
Giờ đây ông đã “Đi xa” song với đồng chí, đồng đội, bạn bè và người thân, ông vẫn luôn hiện hữu như một tấm gương sáng ngời về sự học tập, tu dưỡng và phấn đấu vươn lên không ngừng để trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng vẫn là người cộng sản trung kiên, người thầy mẫu mực và là nhà tình báo có tầm nhìn chiến lược; trí tuệ mưu, dũng song toàn và cống hiến trọn đời cho cách mạng.
Nhân dịp kỷ niệm 78 năm ngày thành lập ngành Tình báo Quốc phòng Việt Nam (25/10/1945 - 25/10/2023), ôn lại truyền thống của ngành, nhớ về ông, chúng ta biết ơn ông và cảm nhận về ông như người thầy, vị thủ trưởng đầu tiên của ngành đã có nhiều cống hiến, khởi tạo, xây dựng và phát triển ngành Tình báo Chiến lược ngang tầm với cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh./.