
Việt Nam là một quốc gia độc lập, thống nhất trên nền tảng đa dân tộc, văn hóa vì vậy cũng là quốc gia có nhiều ngôn ngữ khác nhau. Trong lịch sử dựng nước và phát triển đất nước, việc bảo tồn và phát huy sự trong sáng của tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ dân tộc khác (phương ngữ) luôn được chú trọng trong chủ trương đường lối của nhà nước cũng như trong ý thức mỗi người dân Việt Nam. Tiếng Việt thuộc hệ ngôn ngữ la tinh, dễ học, dễ vận dụng và gắn liền với sự phát triển của xã hội Việt Nam. Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ cập, chịu tác động to lớn của lịch sử từ khi hệ ngôn ngữ này được hình thành, là ngôn ngữ quốc gia nên được đặc biệt quan tâm. Việc giữ gìn ngôn ngữ toàn dân trong thời kỳ hội nhập có những ưu điểm và hạn chế bởi những thành tố chủ quan và khách quan.
Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định ngôn ngữ tiếng Việt rất phong phú và giúp mang lại trí tuệ cho người Việt. Cho tới thời điểm hiện tại, thế giới nói chung và người dân Việt Nam nói riêng đều không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tiếng Việt cũng như sự phát triển mạnh mẽ của ngôn ngữ mà chúng ta gọi là “ngôn ngữ mẹ đẻ”. Trong quá trình phát triển, rất nhiều từ mới, cụm từ mới, thuật ngữ mới thuần Việt đã được ra đời và phục vụ tốt hơn công việc giao tiếp, diễn đạt ý tưởng và phát triển kinh tế, xã hội, khoa học. Tiếng Việt không chỉ thu hút bằng âm sắc trầm bổng và trữ tình mà còn ở chiều sâu của ngữ nghĩa.
Mặt khác ngày nay thế hệ trẻ sử dụng ngôn ngữ nước ngoài nhiều, từ lóng từ vay mượn từ tiếng Anh, tiếng Mỹ bị tác động. Ngôn ngữ tiếng Việt bỗng nhiên có thêm những từ ghép, từ viết tắt, ký hiệu: vợ = Vk, chồng = Ck. Thói quen sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ với tần suất quá dày đặc trong giao tiếp cũng tác động không nhỏ đến cách giới trẻ dùng từ lóng, đặc biệt là thế hệ Gen Z. Ngôn ngữ thế hệ Gen Z chuyển đổi tiếng Việt sang "teen-code" bằng việc sử dụng những từ ngữ thay thế như: h-k, tr-ck, b-p… Những từ lóng này được coi như ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày do một nhóm người ngầm hiểu và quy ước với nhau nhưng ngày càng trở nên phổ biến hơn. (Da dẻ: Cách nói hài hước của từ "ra vẻ”. “Khum: Là cách từ chối theo kiểu Gen Z nhưng mức độ nhẹ hơn từ "không", thường được sử dụng trong những cuộc trò chuyện thân mật. Mai đẹt ti ni: phiên âm tiếng Việt của cụm từ tiếng Anh "my destiny" để chỉ định mệnh của mình. Hay sử dụng từ “Ô dề”: Là phiên bản nâng cấp của từ "làm lố", làm quá đến mức không giống ai. Cụm từ này không quá thông dụng trước đây, tuy nhiên đối với thế hệ Gen Z, "ô dề" được sử dụng phổ biến để trêu chọc bạn bè. “Ok/âu khê” là đồng ý, gửi hàng là ship/síp hàng, đu Idol tức là theo phong trào thần tượng…
Đến đầu thế kỷ 17, khi các tu sĩ phương Tây Dòng Tên vào truyền giáo ở nước ta, họ đã bắt đầu xây dựng phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh, làm tiền đề cho cả một quá trình lâu dài hình thành và phát triển nên chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ giúp 1 đứa trẻ biết đọc, viết, sử dụng ngôn ngữ khá thông thạo ở ngưỡng 6 tuổi, thậm chí sớm hơn, điều này giúp trẻ sẽ đọc được những gì chúng cần đọc.
Việt Nam với 54 dân tộc, 3 miền, 7 vùng văn hóa, việc thống nhất cách nói, cách phát âm theo tiếng Việt phổ thông không đồng nghĩa với việc loại bỏ hết yếu tố đặc trưng của từng vùng miền, bởi sự phân biệt giọng nói theo ba miền Bắc, Trung, Nam chỉ mang tính tương đối, hơn nữa nội bộ trong từng khu vực vùng nhỏ hơn lại vẫn có những điểm khác biệt. Ngoài ra, việc giữ gìn bản sắc văn hóa vùng miền là câu hỏi được đặt ra với ngôn ngữ nói riêng và văn hóa vùng miền nói chung.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam:“Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức và ngôn ngữ giao tiếp giữa các dân tộc của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam… Tiếng Việt có ba phương ngữ chính: Bắc, Trung, Nam, khác nhau về ngữ âm, một phần về từ vựng. Ngôn ngữ văn học được hình thành trên cơ sở phương ngữ Trung và Bắc, lấy hệ thống nguyên âm, phụ âm của phương ngữ Miền Trung, hệ thống thanh điệu của phương ngữ Miền Bắc làm cơ sở. Cách phát âm vùng Hà Nội được coi là chuẩn ngôn ngữ nói (Thực chất là tạm chuẩn). Giọng nói 3 miền Bắc, Trung, Nam có những điểm khác nhau cơ bản; không có giọng nào hay hơn giọng nào, bởi mỗi vùng miền giọng có âm vực, sắc điệu riêng biệt làm nên vẻ đẹp riêng của từng miền...
Ngôn ngữ toàn dân được hiểu như là ngôn ngữ được dùng trong cả nước mà tất cả mọi người được hiểu, nó dùng để phân biệt với tiếng địa phương mà mọi người vẫn dùng. Còn tiếng địa phương (phương ngữ) được hiểu như là ngôn ngữ, tiếng nói của một vùng người sinh sống nào đó, tiếng địa phương thường thì chỉ có vùng đó mới dùng và vùng đó mới hiểu, nó được dùng để phân biệt với tiếng phổ thông…Ngôn ngữ hình thành từ cuộc sống và phản ánh cuộc sống của từng địa phương có sự khác nhau về văn hóa. Các phương ngữ này khác nhau chủ yếu ở ngữ âm và dấu thanh. Việc phân tích tiếng nói theo vùng miền ở Việt Nam là một nhiệm vụ phức tạp, vì tiếng Việt có nhiều sự biến đổi về phương ngôn ngữ và cách phát âm theo từng khu vực sinh sống. (Trích trong cuốn Cẩm nang chữa ngọng; NXB Thanh Niên; tác giả Nguyễn Thị Thanh Mai).
Trong bài viết trên trang lsvn.vn (Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam) ngày 4/2/2022 đã nêu: “Mọi công dân Việt Nam, dù thuộc dân tộc nào, cũng có trách nhiệm và quyền lợi khi sử dụng quốc ngữ trong các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhìn từ góc độ pháp lý, bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt là quyền đồng thời là trách nhiệm của mỗi công dân. Tiếng Việt là thành tố quan trọng của văn hóa Việt Nam. Ở nước ta, các dân tộc nhìn chung đều có ngôn ngữ của mình (tiếng mẹ đẻ), nhưng tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia (quốc ngữ) theo quy định tại Hiến pháp 2013…
Bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) - văn kiện được coi là Tuyên ngôn của Đảng về văn hóa; đặc biệt là ba nguyên tắc, ba tính chất cơ bản của nền văn hóa Việt Nam: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa. Bên cạnh việc đẩy mạnh đấu tranh về học thuyết, tư tưởng thì phải coi trọng “tranh đấu về tiếng nói, chữ viết”, bao gồm “thống nhất và làm giàu thêm tiếng nói; ấn định mẹo văn ta; cải cách chữ quốc ngữ”: “Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt”, “xây dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số”.
Luật Giáo dục ngày 10/12/1998 quy định “Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường” và xác định trách nhiệm của Nhà nước: “Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình”. Quy định này được duy trì qua các lần sửa đổi Luật Giáo dục vào năm 2005, 2009 và 2019.
Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên, tiếng Việt được chính thức được quy định là ngôn ngữ quốc gia của Việt Nam: “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt” (khoản 3, Điều 5), tạo cơ sở để xây dựng chính sách và kế hoạch phát triển ngôn ngữ trong thời kỳ mới. Có thể đánh giá đây là một bưc tiến quan trọng, khẳng định vị thế của tiếng Việt trong bối cảnh mới, khi chúng ta thực hiện hội nhập quốc tế. Ngoại ngữ chính là một trong những sản phẩm của giao lưu trong hội nhập.
Để cụ thể hóa các quy định về tiếng Việt trong các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của các cơ quan hành pháp, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 25/2011/TT-BTP, ngày 27/12/2011 về thể thức, kỹ thuật trình bày VBQPPL của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch, quy định ngôn ngữ sử dụng trong văn bản là tiếng Việt, từ ngữ được sử dụng phải là từ phổ thông; văn bản phải sử dụng ngôn ngữ viết, cách diễn đạt phải rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu và số trong văn bản phải được thể hiện bằng số Ả Rập. Trong lĩnh vực lập pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV ban hành Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14 ngày 14/3/2017 quy định thể thức và kỹ thuật trình bày VBQPPL của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước; trong đó có quy định ngôn ngữ sử dụng trong văn bản là tiếng Việt (Điều 18).
Hiện nay vấn đề “toàn cầu hóa văn hóa, toàn cầu hóa ngôn ngữ” minh chứng cho quá trình giao thoa về ngôn ngữ diễn ra mạnh mẽ khiến tiếng Việt cùng lúc phải “cạnh tranh” với nhiều ngôn ngữ/ngoại ngữ khác. Bên cạnh đó, dưới tác động của quá trình đô thị hoá, nền kinh tế thị trường, sự di chuyển liên tục dòng người nhập cư tăng nhanh vào các đô thị” ở ba miền Bắc, Trung, Nam, giữa các vùng đô thị trong một miền, giữa nông thôn và thành thị... do đó tiếng Việt cũng có những thay đổi đáng kể. Trong quá trình hội nhập, phương ngữ dần ảnh hưởng và “hòa theo” văn hóa khu vực trung tâm (cụ thể như tại thủ đô Hà Nội), người miền Trung, miền Nam sinh sống làm việc tại đây trong 1 số lĩnh vực, ngành nghề công tác sẽ thay đổi giọng nói (tiếng nói nhẹ) và phát âm theo cách người Hà Nội nói. Phần đa người dân tại các tỉnh thành chỉ nói giọng vùng miền (phương ngữ) khi gặp người cùng quê hương, hoặc giao tiếp với người thân trong gia đình của họ.
Theo PGS.TS. Phạm Văn Tình: “Chúng ta phải thừa nhận là, trải qua 4.000 năm lịch sử, dấu ấn của văn hoá Hán và tiếng Hán, văn hoá Pháp và tiếng Pháp còn biểu hiện rất rõ trong tiếng Việt. Hơn 60% từ Việt có gốc Hán (theo thống kê của H. Maspéro, 1972) và khoảng hơn 2.000 từ gốc Pháp (thống kê của Nguyễn Quảng Tuân và Nguyễn Đức Dân, 1992). Gần đây, tiếng Việt thu nhận thêm nhiều từ ngoại lai nữa (chủ yếu là tiếng Anh). Từ điển từ mới (Viện Ngôn ngữ học, 2002) đã thu thập khoảng 3.000 từ mới các loại trong vòng 15 năm (1985-2000)”.
Phải nói rằng, tiếng Việt là ngôn ngữ mẹ đẻ của đại đa số người dân Việt Nam, là công cụ giao tiếp chính yếu, phổ cập trong cộng đồng dân cư hơn 100 triệu người nhưng sự “biến thiên” của nó cũng diễn ra liên tục. Bản chất tiếng Việt cho đến nay luôn tự biến đổi, tự tiếp nhận vốn từ vựng từ bên ngoài (tiếng Anh) khá nhiều, tự điều chỉnh một cách chủ động, biến thành cái riêng. Tại Việt Nam, ngôn ngữ Tiếng Anh được phổ cập từ lớp 1, trở thành môn học bắt buộc từ hệ đà tạo Tiểu học cho đến chương trình đào tạo Sau đại học (cao nhất là bậc học Tiến sỹ). Một số nước ở Châu Á sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức (Singapore, Philippines, Brunei, Malaysia). Vấn đề đặt ra là chúng ta phải kế thừa những giá trị ngôn ngữ truyền thống và hội nhập như thế nào để không đánh mất bản sắc của tiếng mẹ đẻ ở mỗi vùng phương ngữ, đặc biệt là của những vùng dân tộc thiểu số ít người.
Qúa trình hòa nhập tiếng Việt diễn ra cũng là xu thế hội nhập và toàn cầu hóa khiến tiếng Việt có nhiều cơ hội tiếp thu được nhiều yếu tố mới và tiến bộ làm cho tiếng Việt trở nên giàu có. Nhưng mặt khác tiếng Việt cũng phải đối đầu trước nguy cơ hòa tan theo xu hướng áp đảo của “thế giới phẳng” về ngôn ngữ và văn hóa do một số nước lớn sử dụng. Trong suốt những năm vừa qua, dù được đề cập dưới nhiều khía cạnh nội dung phong phú nhưng mục tiêu thống nhất là “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” vẫn luôn là một chủ đề liên tục được luận bàn.
Theo tài liệu thống kê của tổ chức Unesco, trong số khoảng 7.000 ngôn ngữ được nói trên thế giới, hơn 50% ngôn ngữ có khả năng bị tuyệt chủng trong vòng một vài thế hệ tới, 96% được nói bởi chỉ có 4% dân số thế giới. Chỉ có vài trăm ngôn ngữ đang thực sự có giá trị trong hệ thống giáo dục và trong các lĩnh vực công cộng và chưa đầy 100 ngôn ngữ được sử dụng trong thế giới kỹ thuật số. Trong thông điệp gửi đi nhân Ngày quốc tế tiếng mẹ đẻ (21/2/2016), bà Irina Bokova, Tổng Giám đốc tổ chức Unesco khẳng định chủ đề của ngày kỷ niệm năm nay được lựa chọn: “Giáo dục có chất lượng, ngôn ngữ giảng dạy và kết quả học tập” nhấn mạnh tầm quan trọng của các ngôn ngữ mẹ đẻ trong quá trình phát triển một nền giáo dục có chất lượng và đa dạng ngôn ngữ nhằm thực hiện Chương trình phát triển bền vững vào năm 2030. Tổng Giám đốc Unesco nhấn mạnh: “Là một phần của một phương pháp tiếp cận đa ngôn ngữ, tiếng mẹ đẻ là những thành phần thiết yếu của một nền giáo dục có chất lượng, và chính là nền tảng cho việc trao quyền cho các cá nhân và xã hội. Chúng ta phải nhận ra và nuôi dưỡng sức mạnh này, để không để lại bất cứ ai ở ngoài lề xã hội và xây dựng một tương lai công bằng và bền vững hơn cho tất cả mọi người”.
Ngày 16/5/2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã "yêu cầu các nước thành viên và Ban Thư ký thúc đẩy việc bảo tồn và bảo vệ tất cả các ngôn ngữ được nói bởi các dân tộc trên toàn thế giới". Cũng với nghị quyết này, Liên hợp quốc đã tuyên bố: “Năm 2008 là năm ngôn ngữ quốc tế, nhằm thúc đẩy sự thống nhất trong sự đa dạng và sự hiểu biết quốc tế nhờ đa ngôn ngữ và đa văn hóa. Ngày quốc tế tiếng mẹ đẻ được kỷ niệm hàng năm kể từ năm 2000 ở khắp nơi trên thế giới, nhằm thúc đẩy sự đa dạng ngôn ngữ và văn hóa cũng như đa ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo tồn và phát triển di sản vật thể và phi vật thể của chúng ta. Tất cả mọi thứ được thực hiện để thúc đẩy việc phổ biến tiếng mẹ đẻ không chỉ nhằm khuyến khích sự đa dạng về ngôn ngữ và giáo dục đa ngôn ngữ, mà còn nâng cao nhận thức về các truyền thống ngôn ngữ và văn hóa trên toàn thế giới, truyền cảm hứng cho tinh thần đoàn kết dựa trên sự hiểu biết, khoan dung và đối thoại”.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và đa ngôn ngữ, với 54 dân tộc và khoảng hơn 90 ngôn ngữ khác nhau. Mỗi cộng đồng dân tộc thiểu số đều có ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của mỗi dân tộc là một thành tố cơ bản của văn hóa, đồng thời là phương tiện để hình thành và lưu truyền các hình thái quan trọng nhất trong đời sống văn hóa tinh thần của mỗi vùng miền, khu vực sống.
Theo báo cáo của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, thực hiện các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị định số 05/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo các địa phương quan tâm bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết của các dân tộc; tiến hành khảo sát, thống kê, sưu tầm tiếng nói, chữ viết, thư tịch cổ của các dân tộc; biên soạn, xuất bản sách bằng tiếng dân tộc. Đến nay, đã có 51 thư viện cấp tỉnh, 541 thư viện cấp huyện, 2.191 thư viện cấp xã tại các địa phương có đồng bào dân tộc sinh sống có đầu sách song ngữ. Nhiều thư viện đã nỗ lực số hóa tài liệu bằng tiếng dân tộc để lưu giữ lâu dài như: Thư viện tỉnh Yên Bái đã số hóa 100% tài liệu bằng tiếng dân tộc; Thư viện tỉnh Sơn La có trên 1.000 cuốn sách bằng tiếng Thái cổ, số hóa được 23.154 trang tài liệu bằng tiếng dân tộc; thư viện dân sinh ngoài công lập tại các chùa Khmer tổ chức phục vụ tài liệu bằng tiếng dân tộc cho đồng bào Khmer các tỉnh, thành phố phía Nam…
Nhiều tỉnh, thành phố đã có những cách thức bảo tồn hiệu quả di sản tiếng nói, chữ viết. Tỉnh Khánh Hòa mở lớp học tiếng nói, chữ viết của dân tộc Ra Glai cho cán bộ, công chức, viên chức. Tỉnh Phú Thọ bảo tồn ngôn ngữ dân tộc thiểu số thông qua truyền dạy các bài hát, làn điệu dân ca, trò chơi dân gian… Huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam đầu tư công trình nghiên cứu biên soạn bộ chữ viết tiếng Bhnong; huyện Nam Trà My sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn sách dạy và học tiếng dân tộc Ca Dong để đưa vào giảng dạy tại các trường học. Tỉnh Ninh Thuận nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn sách chữ Chăm, tiến hành giao nhận Thư tịch cổ Chăm và được Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II Thành phố Hồ Chí Minh tu bổ, bồi nền, số hóa…(Theo dangcongsan.vn).
Tiếng Việt không chỉ giữ vai trò là công cụ giao tiếp chính trong một cộng đồng cư dân rộng lớn, đa dạng mà còn là phương tiện lưu giữ, trao truyền văn hóa của bao thế hệ người Việt. Sự phát triển của tiếng Việt gắn liền với bước tiến của xã hội Việt Nam. Vì vậy, hiện nay chúng ta cần hiểu sâu sắc hơn tầm quan trọng của việc bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng, chuẩn mực của tiếng Việt đối với mục tiêu xây dựng một nền văn hóa Việt Nam đặc trưng.
Bên cạnh đó, chúng ta cần hiểu biết pháp quyền về “sử dụng và tiếp cận ngôn ngữ của công dân”, “quyền sử dụng và tiếp cận ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số” là một trong những quyền đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam một cách nghiêm túc. Chúng ta cần thêm những chính sách và giải pháp hiệu quả cho vấn đề kiểm soát hành vi ngôn ngữ cũng như duy trì nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn tiếng Việt trước làn sóng “ngoại nhập” của ngôn ngữ.
Có thể nói quá trình hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa thế giới càng được đẩy nhanh thì tốc độ gia tăng vốn từ vựng mới từ ngôn ngữ ngoại lai ngày càng cao. Theo thời gian, những từ ngữ mới cập nhật, được số đông thay đổi, chấp nhận sẽ tồn tại, gia nhập vào vốn ngôn ngữ chung, làm phong phú thêm tiếng Việt. Tiếp đó, những từ ngữ không phù hợp sẽ nhanh chóng bị đào thải, lãng quên, thậm chí là mất hẳn. Tuy nhiên, xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động ngôn ngữ, quá trình này diễn ra chậm hơn nhiều so với thực tiễn đời sống xã hội. Chúng ta cần có những chính sách, cơ chế thích hợp nhằm tạo nên “bộ lọc” giúp cho tiếng Việt có khả năng tiếp biến trong quá trình giao thoa và hội nhập toàn cầu.
Yêu cầu đặt ra đòi hỏi các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa, báo chí và truyền thông; những nhà cải cách giáo dục các chuyên gia cần nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về đời sống ngôn ngữ để kịp thời có những phản biện, góp ý nhằm chấn chỉnh những lệch lạc trong sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt. Việc quy định chặt chẽ về ngôn ngữ nói chung, tiếng Việt nói riêng cũng cần chuẩn mực, khoa học, tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động ngôn ngữ tiếng Việt chuẩn hóa trong các lĩnh vực: chính trị, xã hội, khoa học, giáo dục, báo chí, phát thanh truyền hình, hành chính, pháp luật. Trong mỗi nhà trường, thầy cô lan tỏa tình yêu tiếng Việt, tạo cảm hứng để từ những đứa trẻ từ khi học nói, viết ngôn ngữ Việt đều ý thức được trách nhiệm nói đúng, viết đúng ngôn ngữ mẹ đẻ.
Mỗi người dân sinh ra trên mảnh đất hình chữ S quê hương Việt Nam ngấm sâu trong mình dòng chảy văn hóa Việt, trong đó ngôn ngữ là mạch nguồn kết nối. Ngôn ngữ Tiếng Việt đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển bởi nó bảo đảm sự đa dạng về văn hóa và giúp các nền văn hóa có thể giao thoa, trao đổi, hoàn thiện. Mỗi tiếng nói đều là nguồn ngữ nghĩa độc đáo giúp hiểu, viết và mô tả thực tế thế giới quan con người. Tiếng mẹ đẻ cùng với sự đa dạng của ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng để xác định bản sắc của các cá nhân với 1 nét riêng có, bản sắc của mỗi quốc gia với nét đặc thù. Vẫn biết trong nhịp sống toàn cầu hội nhập hôm nay có nhiều biến động, mỗi quốc gia cần có phương cách bảo toàn văn hóa của mình, trong đó Việt Nam không ngoại lệ. Chúng ta mong muốn ngôn ngữ Tiếng Việt hòa nhập nhưng không “hòa tan”, phương ngữ Việt ở các vùng miền, tỉnh thành không mất đi mà vẫn theo kịp ngôn ngữ toàn dân đại chúng để văn hóa Việt, ngôn ngữ của người Việt luôn ở 1 chỉnh thể cố kết chặt chẽ.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.54-55.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), X (2006), XI (2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013.
4. Hoàng Văn Hành (1995), Nhìn lại chính sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà nước ta 50 năm qua, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr.1-6.
5. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Văn Khang (2010), Sự tác động của xã hội đối với ngôn ngữ và những vấn đề đặt ra đối với chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Ngôn ngữ, số 8.
7. Nguyễn Văn Khang (2010), Chính sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ, đề tài cấp Bộ đã nghiệm thu.
8. Nguyễn Thị Thanh Mai (2023),Cẩm nang chữa ngọng, NXB Thanh Niên.