Tháng mười năm nay, cơn lũ đến bất ngờ. Ngày 27/10, nước đổ về như trút, chỉ vài tiếng đồng hồ mà sân nhà đã thành sông. Lúc đầu tôi còn nghĩ, chắc nước chỉ ngập đến thềm như mọi năm. Nhưng rồi chỉ trong chốc lát, nước đã vào đến chân cầu thang gác xép, rồi dâng nhanh đến ngang mặt phản. Tôi với ba dọn vội đồ đạc, đưa những thứ quý lên gác. Lần đầu tiên trong nhiều năm, nước lũ chạm đến tận bậc cuối cùng của ngôi nhà.
Tổ số 2 của thôn là vùng trũng, nơi nhà tôi và nhiều hộ dân cũ của trường nông nghiệp quần cư. Làng Phước Kiều bên kia hẻm vốn trước kia khá giả, nhiều nhà xây chắc, nền cao. Nhưng xưa kia, họ ít ai làm gác, nên khi nước lên, mọi thứ chìm trong biển nước. Nhà đứa bạn cùng trang lứa của tôi, đồ đạc nổi trôi, cả nhà phải leo lên mái tôn ngồi. Giữa mưa gió lạnh buốt, bốn ngày liền họ trú ngoài trời, lấy tấm bạt che mưa, nấu mì tôm bằng bếp ga mini. Nghĩ mà thương, mà xót.
Nhà nào mới sửa, có gác chắc chắn, thì còn trụ được. Cả xóm cứ như sống trên mặt nước. Người hỏi người xem có thiếu mì, thiếu nước không. Khi mưa tạnh chốc lát, ai cũng ló ra ngoài, ngó dòng nước lên hay xuống. Nhà tôi có gác, có cái ô cửa thoát hiểm mở ra hẻm, bấy giờ trở thành “cửa sổ thế giới” của cả những ngày cô lập.
Từ ô cửa ấy, tôi ngó sang nhà đối diện, nhà thằng Lộc, thằng Tân. Hai đứa mới làm gác tạm, trần thấp như cái hầm. Mưa ngừng, trời sáng, chúng nó cũng chui ra chỗ mái tôn, vẫy tay gọi sang:
– Ê, nước bên nhà mày rút tới đâu rồi?
– Chưa, còn lưng gác!
Tiếng nói vọng qua mưa gió, nghe thân thương như những ngày còn nhỏ gọi nhau đi học.
Ban ngày, tôi ngồi bên ô cửa, nhìn dòng nước lững lờ trôi qua ngõ, chốc chốc lại thấy xuồng hơi của thằng Liều bơi ngang. Nó vốn có chiếc xuồng du lịch mua để đi câu, giờ thành “tàu cứu hộ” của xóm. Liều bơi khắp nơi, chở mì, nước uống, thuốc cảm cho mấy nhà già yếu. Tôi thì mượn được chiếc súp hơi của đứa em, chèo dọc con hẻm, xem ai cần hỗ trợ thì bơi đi mua. Xóm tôi chưa khi nào lại gần nhau đến thế, không phải trong những bữa nhậu, mà trong lúc nước ngập mái hiên, khi ai cũng cần một lời hỏi han, một gói mì, một ngọn đèn pin.
Điện mất, sóng viễn thông cũng tắt ngóm. Cả thế giới bỗng thu nhỏ lại qua những ô cửa gác, qua những tiếng gọi vọng trong mưa. Nhất là cái giọng lanh lãnh của con Meo nhà ông Đào gọi con Kiều cháu tôi, ngày thường chắc bị la rồi, chúng nó không có điện thoại nên bí bách, cứ í ới nhau cả ngày. Tôi ngồi đó, nhìn mưa rơi qua khung cửa vuông, thấy lòng mình bình lặng đến lạ. Dưới kia, nước lăn tăn phản chiếu ánh lửa nến của nhà bên. Mùi ẩm mốc, mùi đồng xưa, mùi nước lũ quyện vào nhau, thành mùi của ký ức.
Tối, cả xóm im ắng. Chỉ có tiếng mưa tí tách trên mái, tiếng ếch nhái kêu trong nước ngập. Tôi dùng ánh sáng đèn năng lượng hắt từ góc nhà, viết vài dòng trên máy tính, thấy mình như sống lại tuổi thơ, khi điện còn chập chờn, khi chúng tôi vẫn học bài dưới ánh đèn dầu. Ở cái gác nhỏ này, giữa lũ, tôi nhận ra rằng: mọi tiện nghi rồi cũng có thể mất đi, chỉ có tình người là còn lại.
Ngày thứ tư, nước bắt đầu rút. Khi mọi nhà đã dọn dẹp xong, xóm tôi lại rộn ràng hơn bao giờ hết. Những đoàn thiện nguyện về tặng quà cho bà con. Có đoàn đóng gói sẵn, người dân chỉ cần đến nhận; có đoàn mang theo hàng nguyên thùng, nên tôi nhờ mấy đứa nhỏ và cô bác cùng xóm đến phân chia thành từng phần.
Ở đầu hẻm có con Bủm làm spa, sát nhà tôi. Biết nó từ nhỏ nhưng thật ra chẳng ai rõ tên thật của nó là gì. Nó lanh lợi lắm, lại to miệng, nên vừa nghe tin có quà, nó với chị Mười nhà bên đã chạy khắp tổ để thông báo mọi người đến nhà tôi, nơi được chọn làm điểm tiếp nhận. Cả xóm rộn ràng, người ra người vào, tiếng cười chen giữa mùi bùn và mùi mưa còn sót lại. Ai cũng ý thức rằng việc nhận quà là chia sẻ, ai đã có thì nhường người chưa, ai chưa có thì được nhắc tên để đoàn thiện nguyện phát cho. Giữa những ngày khó khăn, lòng người lại sáng lên như nắng sau mưa.
Ngày dần hửng. Tôi lại chui ra từ ô cửa thoát hiểm, nhìn xuống con hẻm đầy bùn non và tiếng trẻ con chạy giỡn. Trên mái nhà, vài tấm áo vẫn phơi lất phơ trong gió. Tôi khẽ mỉm cười, thấy lòng mình nhẹ tênh. Sau tất cả, nước đã đi, nhưng tình người thì còn đọng lại, qua những ô cửa, qua những bàn tay, qua cái cách mà xóm nhỏ Thanh Chiêm 1 đi qua mùa nước lớn.
Giữa dòng đời hối hả, có lẽ ai cũng cần một “ô cửa thoát hiểm” cho riêng mình, nơi mở ra một khoảng trời bình yên, nơi ta còn nghe được tiếng gọi nhau giữa những biến động. Với tôi, đó là ô cửa trên gác xép, nơi giữ lại ký ức về mẹ, về xóm nhỏ, về những ngày sống cùng nhau qua mùa nước lớn.