Để hiện thực hóa mục tiêu của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình “ phát triển, giàu mạnh, thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đòi hỏi chúng ta cần có một lực lượng sản xuất phát triển, trong một nền kinh tế hiện đại và năng động với hiệu xuất kinh tế cao dựa vào khoa học công nghệ và chuyển đổi số.
Như vậy, luận giải làm rõ hơn vấn đề phát triển lực lượng sản xuất mới gắn với nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay là một nội dung đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
Lực lượng sản xuất mới trong bối cảnh nền kinh tế số hiện nay
Kinh tế là lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, có tác động mang tính chất trực tiếp, quyết định đến những hoạt động cơ bản của con người cũng như quá trình phát triển của xã hội trong các giai đoạn lịch sử. Ngày nay, với sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật, mọi lĩnh vực đều diễn ra trên nền tảng công nghệ thông tin, với xu hướng số hóa và chuyển đổi số đang thực sự xuất hiện mạnh mẽ ở mọi lĩnh vực, trong đó có kinh tế, từ đó cũng dần hình thành khái niệm về nền “kinh tế số”.
Những năm gần đây, nằm trong xu thế chung của thế giới, ở Việt Nam, khái niệm “kinh tế số” không còn xa lạ, được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, ở các diễn đàn kinh tế, trong các hoạt động kinh tế, cả trong sản xuất, dịch vụ, thương mại,… Theo nội dung Quyết định số 411/QĐ-TTg, ngày 31/03/2022 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 thì Kinh tế số (Digital economy) là “hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế”.
Kinh tế số hiện diện trên tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng,...). Bối cảnh hiện nay là thời cơ rất thuận lợi mà Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt, hành động mạnh mẽ để phát triển kinh tế số, phát triển thêm các ngành nghề kinh doanh mới, mở ra các thị trường mới và tạo thêm nhiều nhu cầu việc làm mới. Nhiệm vụ phát triển kinh tế số phải gắn với phát triển lực lượng sản xuất mới trong tất cả các chiến lược phát triển đất nước.
Lực lượng sản xuất mới là sự kết tinh giữa công nghệ cao và tri thức sáng tạo của con người. Theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất được hiểu là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất ở một trình độ nhất định. Ngày nay, dưới tác động của công nghệ số, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), chuỗi khối (Blockchain), và Internet vạn vật (IoT), tư liệu sản xuất đã không còn bó hẹp trong các phương tiện vật chất như máy móc hay thiết bị. Chúng được mở rộng sang các yếu tố phi vật chất, như phần mềm, thuật toán, dữ liệu, nền tảng số mang tính linh hoạt, kết nối và tái cấu trúc không ngừng.
Đồng thời, người lao động - với vai trò là chủ thể lực lượng sản xuất, cũng chuyển hóa từ vị trí “người thực thi” sang vai trò “người sáng tạo và vận hành tri thức số”. Lao động cơ bắp ngày càng bị thay thế bởi lao động trí não dựa trên cơ sở tri thức, kỹ năng số và năng lực thích ứng công nghệ. Trong lực lượng sản xuất mới, năng lực cạnh tranh không còn nằm ở vốn đầu tư lớn hay tài nguyên thiên nhiên phong phú, mà nằm ở khả năng sáng tạo, học hỏi và đổi mới không ngừng của người lao động.
Hiện nay, lực lượng sản xuất mới trong nền kinh tế số mang tính mở, linh hoạt và xuyên quốc gia. Khác với lực lượng sản xuất trong nền kinh tế công nghiệp theo mô thức truyền thống, vốn bị giới hạn bởi biên giới địa lý, quy mô nhà xưởng và nguồn lao động tập trung, lực lượng sản xuất mới được đặc trưng bởi tính phân tán, kết nối và toàn cầu hóa.
Một lập trình viên ở Việt Nam có thể phát triển sản phẩm cho thị trường ở nước ngoài; một doanh nghiệp khởi nghiệp nhỏ vẫn có thể tiếp cận khách hàng toàn cầu thông qua nền tảng số. Dữ liệu - nguồn tài nguyên mới của thời đại không bị giới hạn bởi ranh giới vật lý và có thể lưu trữ, xử lý, khai thác ở quy mô lớn theo thời gian thực. Sự phân tán về không gian đi kèm với sự liên kết chặt chẽ trong thời gian thực tạo ra một lực lượng sản xuất có tính “đồng thời phân tán và thống nhất”, đòi hỏi cách tiếp cận chính sách mới với sự mềm dẻo, thích ứng nhanh và có khả năng điều phối đa chiều giữa các chủ thể khác nhau.
Lực lượng sản xuất trong nền kinh tế số mang tính phi vật chất hóa sâu sắc. Nếu trong nền sản xuất cơ khí truyền thống, máy móc và nguyên vật liệu là trung tâm của tư liệu sản xuất, thì trong lực lượng sản xuất mới, dữ liệu và phần mềm mới thực sự là “máy móc” của nền sản xuất số. Những tư liệu sản xuất này có khả năng tự học, tự cải tiến, thậm chí tự ra quyết định.
Sự phi vật chất hóa không làm giảm vai trò của tư liệu sản xuất, mà trái lại, làm gia tăng tính hiệu quả, độ mở rộng và khả năng sinh lời cao hơn trước. Điều này đòi hỏi một tư duy mới về sở hữu tư liệu sản xuất - khi một tài sản như thuật toán, cơ sở dữ liệu, nền tảng số,... có thể được chia sẻ và khai thác bởi nhiều chủ thể cùng lúc, mà không nhất thiết phải sở hữu vật lý như trong thời kỳ công nghiệp.
Mối quan hệ biện chứng giữa phát triển lực lượng sản xuất mới gắn với nền kinh tế số
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ của một xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Mọi sự thay đổi của đời sống xã hội, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ sự biến đổi, sự hoàn thiện ngày càng cao và sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Ngày nay khoa học và công nghệ cũng đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp do chỗ chúng chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những biến đổi trong quá trình sản xuất, đồng thời là một bộ phận không thể thiếu của quá trình sản xuất của xã hội hiện đại. Hiện nay, lực lượng sản xuất của nhân loại đang có những biến đổi rất sâu sắc, từ người lao động cho đến tư liệu sản xuất. Sự biến đổi của lực lượng sản xuất xã hội đã và đang kéo theo sự thay đổi, cách thức vận hành của nền kinh tế. Nền kinh tế truyền thống đang từng bước được thay thế một cách phổ biến bằng nền “kinh tế số”.
Từ quá trình này, xuất hiện khái niệm “lực lượng sản xuất mới” theo những cách tiếp cận với nội hàm không những được bổ sung, phát triển. Ban đầu, “lực lượng sản xuất mới được giới khoa học dùng để chỉ các ngành công nghiệp mới hình thành dựa trên những đổi mới và đột phá về khoa học và công nghệ. Lực lượng sản xuất mới chứa đựng các yếu tố mới, các bộ phận mới trong lực lượng sản xuất của xã hội, chẳng hạn như việc sử dụng các loại năng lượng mới như năng lượng hạt nhân, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng địa nhiệt, năng lượng thủy triều, v.v..
Tuy nhiên, trong công cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất mới, nhất là các công cụ sản xuất, đang từng bước được bổ sung và được làm phong phú thêm rất nhiều, đặc biệt là về mặt chất lượng. Đối với Việt Nam, trong việc nâng cao chất lượng các công cụ này, nhất là công cuộc chuyển đổi số, thì khoa học và công nghệ được xác định là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất mới để đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Như vậy, vấn đề phát triển lực lượng sản xuất mới luôn gắn chặt với xây dựng nền kinh tế số hiện nay. Mối quan hệ giữa kinh tế số và lực lượng sản xuất mới là mối quan hệ biện chứng với sự tác động qua lại, vừa tạo điều kiện, vừa đặt ra giới hạn phát triển cho nhau, trong đó kinh tế số là sản phẩm của một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, đồng thời lại là động lực thúc đẩy sự phát triển cao hơn của lực lượng sản xuất trong kỷ nguyên số.
Kinh tế số chính là kết quả trực tiếp của sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất theo chiều hướng hiện đại hóa và trí tuệ hóa, trong đó, khoa học - công nghệ đóng vai trò trung tâm, đặc biệt là các công nghệ số như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), Internet vạn vật (IoT), chuỗi khối (Blockchain),... Những công nghệ này không chỉ làm thay đổi tính chất của tư liệu sản xuất, mà còn tái cấu trúc toàn bộ quy trình sản xuất, quản trị và phân phối.
Nhờ đó, năng suất lao động tăng cao, chi phí giao dịch giảm mạnh và các giới hạn vật lý trước đây được thay thế bằng khả năng kết nối tức thời và phạm vi toàn cầu. Trong tiến trình này, các yếu tố phi vật chất như dữ liệu, thuật toán và nền tảng số trở thành tư liệu sản xuất then chốt, đồng thời tạo ra môi trường sản xuất linh hoạt, phi biên giới và phi tập trung.
Ngược lại, sự lan tỏa và phát triển của nền kinh tế số cũng đang tạo ra một lực lượng sản xuất mới với những tính chất, cấu trúc và động lực hoàn toàn khác biệt so với nền kinh tế truyền thống. Như đã đề cập, trong lực lượng sản xuất mới, người lao động không còn là người vận hành máy móc đơn thuần, mà trở thành chủ thể sáng tạo và quản lý tri thức.
Nguồn nhân lực lao động trong lực lượng sản xuất mới phải được trang bị kỹ năng số, năng lực tư duy hệ thống, khả năng tương tác công nghệ và thích ứng với các mô hình sản xuất mới. Lực lượng sản xuất mới trong nền kinh tế số vì vậy mang tính hệ thống mở, mạng lưới, tích hợp số hóa và vận hành theo nguyên tắc dữ liệu hóa, trong đó tri thức và công nghệ trở thành nguồn lực cốt lõi. Đây chính là điểm khác biệt bản chất giữa lực lượng sản xuất truyền thống và lực lượng sản xuất mới trong thời kỳ số.
Tại Việt Nam, mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế số và lực lượng sản xuất mới thể hiện ngày càng rõ nét trong nhiều lĩnh vực. Trong thương mại điện tử, các sàn giao dịch như: Shopee, Tiki, Lazada,… không chỉ tạo ra mô hình tiêu dùng mới, mà còn thúc đẩy doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người lao động chuyển đổi phương thức sản xuất, phân phối, tiếp thị… Trong sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng AI, cảm biến IoT, hệ thống ERP,... để nâng cao hiệu quả, từ đó hình thành các mô hình “nhà máy thông minh”, “nông nghiệp số”. Đồng thời, các chính sách phát triển chính phủ số, xã hội số và kinh tế số đang mở rộng không gian phát triển của lực lượng sản xuất thông qua việc đầu tư vào hạ tầng số, dữ liệu công, và dịch vụ công trực tuyến.
Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển này, cũng xuất hiện những mâu thuẫn nội tại như như một tất yếu theo quy luật phát triển mang tính biện chứng khách quan. Trình độ lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng miền, lĩnh vực, và nhóm dân cư đã dẫn tới khoảng cách số ngày càng rõ rệt. Một bộ phận không nhỏ lao động truyền thống không được tiếp cận hoặc đào tạo kỹ năng số kịp thời, dễ bị gạt ra khỏi chuỗi sản xuất hiện đại.
Trong khi đó, hệ thống vản bản pháp luật và thể chế kinh tế vẫn chưa theo kịp với sự biến động nhanh chóng của các hình thức sản xuất mới, đặc biệt là trong việc quản lý lao động nền tảng, sở hữu dữ liệu và điều phối cạnh tranh số. Điều này cho thấy, mối quan hệ giữa kinh tế số và lực lượng sản xuất mới luôn vận động trong trạng thái mâu thuẫn biện chứng, tức là vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau, thúc đẩy nhau phát triển, những giới hạn hiện tại chính là điểm xuất phát cho sự đổi mới và hoàn thiện tiếp theo.
Trong thời đại kinh tế số, lực lượng sản xuất mới không chỉ là yếu tố “được thúc đẩy”, mà chính bản thân kinh tế số cũng là hình thái vận hành của lực lượng sản xuất mới. Tức là, kinh tế số không chỉ là kết quả, mà đồng thời cũng là phương tiện, là môi trường cho sự phát triển lực lượng sản xuất mới. Do đó, việc phát triển kinh tế số cần gắn liền với phát triển lực lượng sản xuất mới thông qua việc nâng cao trình độ người lao động, tư liệu lao động, công cụ lao động áp dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, công nghệ số. Từ thực tiễn Việt Nam, có thể khẳng định rằng, phát triển lực lượng sản xuất mới không thể tách rời chiến lược phát triển kinh tế số.
Theo đó, vấn đề đặt ra là cần đặc biệt quan tâm đầu tư đồng bộ về hạ tầng công nghệ, dữ liệu, chính sách, đồng thời tập trung phát triển nguồn nhân lực số có trình độ, có tư duy đổi mới, sáng tạo và năng lực học tập suốt đời. Chỉ khi nào có một lực lượng sản xuất mới với đầy đủ những đặc trưng của nó như đã được đề cập thì mới có thể là nòng cốt thúc đẩy sự phát triển kinh tế số, để kinh tế số trở thành động lực thực sự của phát triển, tăng trưởng mạnh mẽ bền vững nền kinh tế đất nước, theo kịp xu hướng thời đại hiện nay.
Một số đề xuất định hướng phát triển lực lượng sản xuất mới trong bối cảnh nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay
Trước hết, phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi số nền kinh tế.
Số hóa, chuyển đổi số được xác định là “động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”. Số hoá là quá trình hiện đại hóa, chuyển đổi việc lưu giữ thông tin truyền thống sang hệ thống kỹ thuật số. Chẳng hạn như chuyển từ tài liệu dạng giấy với các loại cỡ khác nhau sang các file mềm trên máy tính, hay số hóa truyền hình chuyển từ phát sóng analog sang phát sóng kỹ thuật số...).
Nói một cách đơn giản, số hóa là việc nhập các dữ liệu lên phần mềm để dễ dàng quản lý, đánh giá và theo dõi. Chuyển đổi số là khai thác các dữ liệu có được từ quá trình số hóa, rồi áp dụng các công nghệ mới như: Dữ liệu lớn (Big Data), Internet cho vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)… để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá trị mới hơn.
Những minh chứng về chuyển đổi số hiện nay như: Các doanh nghiệp chuyển đổi từ thanh toán bằng tiền mặt sang hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như mobile money, ví điện tử, quét mã QR,... Để có thể thực hiện được việc này, doanh nghiệp cần thực hiện số hóa và số hóa quy trình để đưa thông tin lên hệ thống công nghệ, sau đó sử dụng các tiến bộ như big data, AI để phân tích, kết nối và triển khai các hình thức thanh toán tiện lợi này cho người mua và đơn vị bán hàng.
Như vậy, có thể xem số hóa như một phần của quá trình chuyển đổi số, muốn chuyển đổi số các lĩnh vực của đời sống xã hội thì trước hết các lĩnh vực này phải được số hoá. Như vậy, số hóa, chuyển đổi số là định hướng tiên quyết cho phát triển trinh tế số gắn liền với lực lượng sản xuất mới hiện nay.
Hai là, phát huy cao vai trò tham gia của các chủ thể thúc đẩy lực lượng sản xuất mới.
Các chủ thể chính tham gia phát triển kinh tế số có thể kể ra đó là: Nhà nước, các hội, liên hiệp hội; các doanh nghiệp (doanh nhân và nhà đầu tư), nhà nghiên cứu, các cá nhân. Trong phát triển kinh tế số, vai trò chủ yếu của Nhà nước chính là hoạch định chính sách, cung cấp sự hỗ trợ cho hoạt động đổi mới, nhất là trong nghiên cứu và phát triển, bảo đảm thực thi và phân bổ các nguồn lực theo nguyên tắc của thị trường.
Còn các liên hiệp hội cũng có vai trò quan trọng trọng tham gia xây dựng chính sách. Trong phát triển kinh tế số, các chủ thể này thực hiện các công việc như: Phát triển cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển các nền tảng số; Dịch vụ công trực tuyến, kết nối và cơ sở dữ liệu; Thúc đẩy và điều chỉnh nền kinh tế số; Đảm bảo an ninh mạng và quản lý rủi ro… Các doanh nghiệp là lực lượng chủ yếu trong hoạt động phát triển kinh tế số, doanh nghiệp là chủ thể chủ chốt trong đầu tư và ứng dụng kỹ thuật số và ứng dụng mô hình kinh doanh mới, chịu sự thúc đẩy và điều tiết của thị trường.
Năng lực của các doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực của một quốc gia trong phát triển kinh tế số. Chủ thể này thực hiện các hoạt động như: Đầu tư và ứng dụng kỹ thuật số; Ứng dụng mô hình kinh doanh mới để cung cấp sản phẩm dịch vụ cá nhân hóa và kết nối hóa. Nhà nghiên cứu là những chủ thể thực hiện đổi mới, sáng tạo, bao gồm hệ thống các tổ chức, cá nhân làm công tác nghiên cứu thuộc các trường đại học, trung tâm sáng tạo, cơ quan nghiên cứu thuộc nhà nước và ngoài nhà nước.
Khác với doanh nghiệp, hoạt động của các tổ chức nghiên cứu thường có tính phi lợi nhuận và chú trọng vào nghiên cứu cơ bản, có độ rủi ro cao, cần có nguồn lực lớn. Các hoạt động mà nhà nghiên cứu tập trung vào: Nguồn sáng tạo/Nguồn tài sản trí tuệ; Quản lý và đào tạo tài năng; Trung tâm sáng tạo. Đánh giá cao tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học gắn với đổi mới sáng tạo, chuyển đối số quốc gia, mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó chỉ rõ “…có cơ chế thử nghiệm chính sách nhằm thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ chiến lược. Bố trí ít nhất 15% ngân sách nhà nước chi sự nghiệp khoa học phục vụ nghiên cứu công nghệ chiến lược”, “Chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo” .
Ba là, luôn coi trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Chúng ta đều biết, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất trong mọi giai đoạn lịch sử. Để phát triển đất nước nói chung, phát triển nền kinh tế nói riêng, nguồn lực con người giữ vai trò quyết định, là “nguồn lực của mọi nguồn lực”, bởi tất cả các nguồn lực khác chỉ có thể được khai thác, sử dụng hiệu quả và phát huy sức mạnh tối đa của nó khi nguồn lực con người được phát huy.
Do đó, để phát triển kinh tế số gắn với lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay một cách thực sự hiệu quả, vấn đề đầu tiên cần phải thay đổi là nguồn lực con người. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định, “phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển”.
Sau gần 40 năm đổi mới đất nước, lĩnh vực giáo dục và đào tạo đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Tỷ lệ người dân biết chữ tăng cao (đạt trên 97%) và tỷ lệ tái mù thấp; chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo so với GDP thuộc loại cao trên thế giới, bắt đầu chú trọng việc áp dụng các phương pháp đào tạo tiên tiến của các tổ chức đào tạo nhân lực quốc tế, vấn đề nâng cao chất lượng, gắn kết đào tạo với nhu cầu lao động của địa phương, doanh nghiệp và các đơn vị sử dụng lao động được coi trọng... Nhờ đó, nguồn nhân lực chất lượng cao tăng cả về số lượng và chất lượng, trong một số ngành, lĩnh vực đạt trình độ khu vực và quốc tế, như công nghệ thông tin, y tế, công nghiệp xây dựng, cơ khí...
Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu của phát triển nên kinh tế số gắn với lực lượng sản xuất mới. Số liệu thống kê cho thấy, năm 2015 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 51,6%, trong đó 19,9% có bằng cấp, chứng chỉ; năm 2020 ước đạt 64,5%, trong đó 24,5% có bằng cấp, chứng chỉ. Năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 28-30%; đến năm 2030 tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%.
Theo dự báo của ILO, trong tương lai, lao động trong các ngành đang tạo việc làm cho nhiều lao động Việt Nam (dệt may, giày dép...) có nguy cơ cao mất việc dưới tác động của những đột phá về công nghệ. Đây là nguy cơ hiện hữu, bởi họ bị kẹt trong cuộc cạnh tranh khốc liệt với đội ngũ nhân công giá rẻ hơn từ các nước đang phát triển khác và hệ thống người máy đang được ứng dụng ngày càng phổ biến ở các nước phát triển.
Như vậy, để phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số trong điều kiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi phải thực sự đổi mới mạnh mẽ, căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng ưu tiên hỗ trợ cho các ngành khoa học, công nghệ bằng các thể chế và chính sách phù hợp: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”.
Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng lại lực lượng lao động hiện có và đào tạo lực lượng lao động mới theo xu hướng hiện đại đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ truyền thống, tiếp nhận công nghệ hiện đại, tiến tới sáng tạo công nghệ; bảo đảm sự cân đối và đồng bộ giữa lao động phổ thông, lao động kỹ thuật và lao động khoa học.
Mặt khác, cũng cần ưu tiên các nguồn lực để đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghệ chất lượng cao, đào tạo kỹ năng sử dụng công nghệ, góp phần đẩy mạnh khả năng tiếp cận, sử dụng công nghệ và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cho phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng xã hội học tập, nâng cao dân trí đồng thời tạo những điều kiện tối ưu để mọi người dân có thể tiếp cận và sử dụng thế giới công nghệ số.
Bên cạnh đó, phải chú trọng “giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; … khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
Bốn là, tiếp tục thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển mạnh mẽ tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia.
Trong bối cảnh hiện nay, cùng với nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ cũng là yếu tố đặc biệt quan trọng, giữ vai trò “động lực then chốt” trong phát triển lực lượng sản mới. Trên thực tế, khoa học, công nghệ nước ta những năm qua đã có bước phát triển đáng kể so với trước, tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia được tăng cường, một số lĩnh vực khoa học tự nhiên đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới... đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, “tốc độ và sự bứt phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia còn chậm; quy mô, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia còn khoảng cách xa so với nhóm các nước phát triển”.
Trước yêu cầu của nền kinh tế đất nước đang đặt ra hiện nay là phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Để thực hiện được yêu cầu đó phải trên cơ sở phát triển kinh tế số dựa vào nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Phát triển mạnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phải được xem là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy cần phải “Nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số”.
Mặt khác, phải tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời chú trọng phát triển đồng bộ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị. Chỉ trên cơ sở đó chúng ta mới có thể thực hiện chủ trương “đi tắt đón đầu”, giải phóng tối đa sức sản xuất, nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất hiện đại để xây dựng nền kinh tế số một cách hiệu quả.
Phát triển lực lượng sản xuất mới là một xu thế phát triển tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Với những yếu tố đặc trưng của lực lượng sản xuất mới thể hiện ở tính số hóa, linh hoạt, sáng tạo và kết nối cao, kết quả trực tiếp của quá trình chuyển đổi số sâu rộng trong toàn bộ nền kinh tế, là nòng cốt của nền kinh tế số. Kinh tế số và lực lượng sản xuất mới có mối quan hệ biện chứng, trong đó kinh tế số thúc đẩy sự đổi mới toàn diện của lực lượng sản xuất mới, và chính lực lượng sản xuất mới lại tạo ra môi trường phát triển thuận lợi cho kinh tế số tiếp tục mở rộng và lan tỏa.
Để phát triển kinh tế số gắn với lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay, cần có những định hướng chiến lược. Những định hướng lớn đó cần được tiến hành toàn diện và đồng bộ để phát triển nền kinh tế số gắn với lực lượng sản xuất mới, tạo động lực mạnh mẽ để kinh tế Việt Nam cùng các lĩnh vực khác góp phần đưa đất nước “cất cánh” trong kỷ nguyên mới, vì “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bẳng, văn minh” theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.