Luật Phòng thủ dân sự: Khung pháp lý để chủ động ứng phó với các thảm họa, sự cố, bảo vệ nhân dân

Luật Phòng thủ dân sự: Khung pháp lý để chủ động ứng phó với các thảm họa, sự cố, bảo vệ nhân dân

Theo đánh giá của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, phòng thủ dân sự là bộ phận quan trọng của phòng thủ quốc gia; trước những diễn biến khó lường, phức tạp của tình hình thiên tai, dịch bệnh, những biến động của tình hình thế giới, khu vực hiện nay thì việc ban hành Luật Phòng thủ dân sự là rất cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay về phòng thủ dân sự; tạo điều kiện chủ động phòng, chống, ứng phó với các thảm họa, sự cố, bảo đảm an ninh, an toàn, bảo vệ lợi ích của đất nước và của nhân dân.

Tuy nhiên, các đại biểu cũng đề nghị tiếp tục nghiên cứu, rà soát, làm rõ phạm vi điều chỉnh để thống nhất với nội dung của dự thảo luật và quy định phòng thủ dân sự tại Điều 13, Luật Quốc phòng cũng như các quy định của pháp luật khác về phòng thủ dân sự, tránh mâu thuẫn, chồng chéo với phạm vi điều chỉnh của các luật liên quan.

nlntv-bo-doi-1660953956.jpg
Bộ đội chuyển lương thực, thực phẩm hỗ trợ bà con xã Quy Đức, huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh trong đợt dịch Covid-19 (tháng 9-2021). Ảnh: qdnd.vn

* Phó chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương: Phòng thủ dân sự là để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa 

Phòng thủ dân sự là bộ phận phòng thủ của đất nước để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa theo quan điểm của Đảng ta, trên cơ sở kế thừa bài học, kế sách giữ nước từ khi nước chưa nguy trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Luật Quốc phòng năm 2005 đã tạo cơ sở pháp lý bước đầu cho hoạt động phòng thủ dân sự. Luật Quốc phòng năm 2018 tiếp tục kế thừa và tạo khung pháp lý chung cho hoạt động phòng thủ dân sự được tổ chức triển khai trong thực tiễn.

Phòng thủ dân sự là nội dung quan trọng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và là một trong các nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của phòng thủ quốc gia, phòng thủ quân khu và phòng thủ khu vực.

nlntv-tran-quang-phuong-2-1660954054.jpg
Phó chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương. Ảnh: VPQH

Theo quy định tại Điều 13, Luật Quốc phòng năm 2018 hiện nay, hoạt động này đang thực hiện theo Nghị định số 02/2019 của Chính phủ và các pháp luật có liên quan.

Trước tình hình thế giới, khu vực gần đây chuyển biến nhanh, phức tạp, khó lường, dưới tác động của nhiều nhân tố đang gia tăng, diễn biến phức tạp và gây những thiệt hại to lớn về người và của, như đại dịch Covid-19 vừa qua, hoạt động phòng thủ dân sự tuy đã huy động và sử dụng cơ bản, hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm phòng ngừa, cảnh báo, ứng phó kịp thời, khắc phục hậu quả, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về người, tài sản của Nhà nước và nhân dân...

Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện đã bộc lộ nhiều vướng mắc, hạn chế, bất cập về thể chế, về năng lực dự báo, cảnh báo rủi ro thiên tai; công tác di dời người dân khi có thảm họa, sự cố; thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho người dân; sự phối kết hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, trang bị phương tiện của lực lượng chuyên trách nên cần thiết phải xây dựng Luật Phòng thủ dân sự để nghiên cứu, khắc phục các bất cập, hạn chế nêu trên nhằm thể chế đầy đủ quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và tính khả thi.

* Trưởng ban Công tác đại biểu Nguyễn Thị Thanh: Cần thiết ban hành Luật Phòng thủ dân sự

Tôi đồng tình cao với sự cần thiết ban hành Luật Phòng thủ dân sự như những lý lẽ trong Tờ trình của Chính phủ.  

Tôi cho rằng đây là luật quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng thủ dân sự, vừa bảo đảm khung pháp lý và bảo đảm thực tiễn diễn ra trong nhiều năm vừa qua, nhất là thời điểm gần đây.

nlntv-nguyen-thi-thanh-1660954174.jpg
Trưởng ban Công tác đại biểu Nguyễn Thị Thanh. Ảnh: VPQH

Tôi thấy rằng phạm vi điều chỉnh của luật này rất rộng. Vì vậy, tôi đề nghị rà soát kỹ lưỡng hơn để bảo đảm đồng bộ, thống nhất nhưng không bị chồng chéo với một số luật như: Luật Phòng, chống thiên tai; Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm; Luật Phòng cháy, chữa cháy; Luật Lâm nghiệp; Luật Bảo vệ môi trường…

Đặc biệt, về lực lượng phòng thủ dân sự ở Điều 42. Điều 42 của dự thảo luật quy định về lực lượng phòng thủ dân sự, trong đó nòng cốt gồm lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, dân quân tự vệ cùng lực lượng chuyên trách của các bộ, ngành và lực lượng rộng rãi do toàn dân tham gia.

Tôi nhận thấy trong Luật Quốc phòng đã quy định lực lượng nòng cốt gồm dân quân tự vệ, công an xã, phường, thị trấn; lực lượng chuyên trách hoặc kiêm nhiệm của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và các bộ, ngành ở Trung ương tại khoản 3, Điều 13.

Điều đó có nghĩa là, Luật Quốc phòng đã xác định rõ từng loại lực lượng nòng cốt. Do đó, tôi đề nghị cần làm rõ sự khác nhau trong quy định về lực lượng nòng cốt, phòng thủ dân sự trong dự thảo luật này với Luật Quốc phòng.

* Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga: Tạo điều kiện chủ động phòng, chống, ứng phó với các thảm họa, sự cố

Tôi ghi nhận sự nỗ lực của Ban soạn thảo, đánh giá cao Báo cáo thẩm tra, mặc dù mới thẩm tra sơ bộ nhưng đã khá chi tiết, đầy đủ. 

Tôi đồng tình với sự cần thiết ban hành Luật Phòng thủ dân sự với những lý do như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Việc ban hành luật nhằm thể chế hóa đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng trong xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý thống nhất về phòng thủ dân sự, khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay về phòng thủ dân sự do chưa được quy định đầy đủ trong luật, tạo điều kiện chủ động phòng, chống, ứng phó với các thảm họa, sự cố, bảo đảm an ninh, an toàn, bảo vệ lợi ích của đất nước và của nhân dân.

nlntv-chu-nhiem-ubtp-le-thi-nga-2-1660954287.jpg
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga. Ảnh: VPQH

Luật này có nội dung liên quan đến 86 văn bản quy phạm pháp luật gồm Hiến pháp, 47 bộ luật và luật, pháp lệnh, 26 nghị định của Chính phủ và 13 quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Luật Phòng thủ dân sự được ban hành không thay thế các văn bản này và được áp dụng trong trường hợp các văn bản pháp luật chưa có quy định.

Do giao thoa với nhiều luật như thế cho nên tôi đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát toàn diện, kỹ lưỡng các quy định của Luật Phòng thủ dân sự để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tránh chồng chéo, mâu thuẫn; đặc biệt là các nội dung quy định về xác định cấp độ của thảm họa, sự cố, thẩm quyền ban bố, bãi bỏ các cấp độ thảm họa, sự cố, tình trạng khẩn cấp, các hoạt động phòng thủ dân sự khi có nguy cơ xảy ra thảm họa, sự cố… Việc bảo đảm tính thống nhất của dự thảo pháp lệnh với hệ thống pháp luật là điều rất quan trọng.

* Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh: Xác định rõ trách nhiệm khi xử lý thảm họa, sự cố

Tôi quan tâm đến Điều 41 của dự thảo luật về cơ quan chỉ đạo, chỉ huy phòng thủ dân sự. Hiện nay chúng ta giao cho Bộ Quốc phòng, cơ quan quân sự ở các nơi là cơ quan thường trực về phòng thủ dân sự. Có ít nhất 2 trường hợp cần phải xử lý thảm họa, sự cố, đó là thiên tai và dịch bệnh. Hiện nay đối với thiên tai thì cơ quan thường trực đang là ngành nông nghiệp; dịch bệnh đang là ngành y tế. 

nlntv-chu-nhiem-ubvhgd-nguyen-dac-vinh-1660954370.jpg
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh. Ảnh: VPQH

Nếu trong luật không phân định rõ ràng thì khi triển khai sẽ có những vướng mắc nhất định, cho nên bằng luật này chúng ta nêu rõ trường hợp và cơ chế phối hợp với nhau như thế nào. Trường hợp nào cơ quan nào là thường trực, vì người chủ trì ở đây vẫn là Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, nhưng cơ quan tham mưu đề xuất và giải quyết thì cần phân định rõ ràng hơn để bảo đảm dễ dàng hơn khi tổ chức thực hiện. 

Luật Quốc phòng năm 2018:

Điều 13. Phòng thủ dân sự

1. Phòng thủ dân sự là bộ phận của phòng thủ đất nước bao gồm các biện pháp phòng, chống chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân.

2. Nhiệm vụ phòng thủ dân sự bao gồm:

a) Xây dựng cơ chế hoạt động, kế hoạch phòng thủ dân sự;

b) Tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng, tập huấn, huấn luyện, diễn tập;

c) Xây dựng hệ thống công trình phòng thủ dân sự;

d) Xây dựng hệ thống tiếp nhận, xử lý thông tin, nghiên cứu dự báo, cảnh báo, thông báo, báo động;

đ) Thực hiện các biện pháp phòng thủ dân sự.

3. Lực lượng phòng thủ dân sự bao gồm:

a) Lực lượng nòng cốt gồm Dân quân tự vệ; Công an xã, phường, thị trấn; lực lượng chuyên trách hoặc kiêm nhiệm của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và các Bộ, ngành trung ương, địa phương;

b) Lực lượng rộng rãi do toàn dân tham gia.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.