
PV: Vì sao Thảo lại chọn hát then, đàn tính làm con đường gắn bó với du lịch cộng đồng?
Thảo: Em lớn lên ở vùng hồ, từ nhỏ đã nghe bà và mẹ hát then trong các ngày lễ tết. Âm thanh đàn tính và giai điệu then như ăn vào ký ức từ lúc em còn bé. Lớn lên, em được tham gia đội văn nghệ xã, rồi dần hiểu rằng then không chỉ là bài hát, mà là tiếng nói tâm hồn của người Tày mình. Khi làm hướng dẫn viên, em muốn du khách không chỉ đến để ngắm cảnh, mà còn cảm nhận được văn hóa sống động qua những câu hát.
PV: Đi hát trên thuyền cho du khách, cảm xúc của Thảo có khác với khi biểu diễn trên sân khấu?
Thảo: Khác nhiều chứ ạ. Ở sân khấu thì có ánh đèn, có nhịp chương trình; còn trên thuyền thì mộc mạc và tự nhiên hơn. Khi con thuyền đi giữa hồ, tiếng đàn tính vang lên, âm thanh dội vào vách núi, gió mang đi rất xa. Em luôn thấy như mình đang nói chuyện với chính núi rừng quê hương. Du khách thường lặng đi, rồi mỉm cười. Cảm giác gần gũi ấy làm em thấy nghề của mình thật ý nghĩa.
PV: Khó khăn lớn nhất khi gìn giữ then và đàn tính là gì, theo Thảo?

Thảo: Theo em, khó nhất vẫn là sự tiếp nối. Người trẻ bây giờ có nhiều lựa chọn giải trí hiện đại, sự hấp dẫn của then không phải ai cũng cảm nhận được ngay. Thế nhưng, nếu không có người hát, không có người chơi đàn thì di sản sẽ mất đi. Vì thế, em cố gắng biểu diễn thật nhiều, chia sẻ cho du khách, cho học sinh địa phương, mong truyền được chút cảm hứng. Mỗi câu hát cất lên cũng là một cách giữ lại gốc rễ văn hóa.
PV: Du khách thường phản ứng thế nào khi nghe Thảo hát? Có kỷ niệm nào đáng nhớ không?
Thảo: Du khách Việt thường thích thú vì thấy giai điệu lạ mà gần. Còn du khách nước ngoài thì tò mò lắm. Có lần một nhóm bạn trẻ châu Âu đi cùng đoàn đã xin em dạy vài câu hát và nhờ thử gảy đàn tính. Các bạn hát không đúng nhịp đâu, nhưng say mê vô cùng. Khi thuyền cập bến, họ còn bảo nhất định sẽ quay lại Ba Bể chỉ để nghe hát then lần nữa. Những khoảnh khắc như thế khiến em thấy công việc của mình thật đáng làm.

PV: Theo Thảo, hát then đóng vai trò thế nào trong đời sống người Tày?
Thảo: Then gắn với mọi chặng đường của đời người Tày mình. Người lớn hát then để cầu mùa, để mừng nhà mới, mừng năm mới; thanh niên hát then trong lễ hội để trao gửi yêu thương; người già hát then để kể chuyện, dặn dò con cháu. Then là dòng chảy văn hóa không bao giờ đứt. Em nghĩ, giữ được làn điệu then cũng là giữ được căn cước, cái khiến mình biết mình là ai giữa núi rừng này.
PV: Thảo thấy mình có trách nhiệm gì trong hành trình giữ gìn bản sắc ấy?
Thảo: Em không dám nói lớn lao. Em chỉ nghĩ mình may mắn khi được học then từ nhỏ, được sống ở nơi mà mỗi con suối, ngọn núi đều chứa chuyện xưa. Vì thế, em có trách nhiệm đưa những câu chuyện ấy đến với du khách. Mỗi khi có người nói “lần đầu tiên tôi được nghe hát then và thấy rất đẹp”, em vui lắm. Đó chính là động lực để em tiếp tục.

Con thuyền đưa chúng tôi về gần bến. Núi vẫn xanh, hồ vẫn rộng, và tiếng hát của Thảo như còn ngân trên mặt nước. Trên hành trình phát triển du lịch cộng đồng ở Ba Bể, những người trẻ như Hoàng Thị Thảo đang góp phần giữ cho hồ không chỉ đẹp ở cảnh sắc, mà còn đẹp ở những giá trị văn hóa bền sâu. Giữ then với Thảo, cũng chính là giữ một phần căn cước của chính mình.