Nguồn nhân lực được đặc trưng bởi hai yếu tố cấu thành. Đó là số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực là phát triển số lượng và phát triển chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó phát triển chất lượng nguồn nhân lực (năng lực thể chất và tinh thần; trình độ, tri thức và năng lực thực tiễn; kỹ năng nghề nghiệp và phẩm chất đạo đức…) có ý nghĩa quyết định đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở nước ta.

Xuất phát từ thực tế phát triển của đất nước, từ Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) đến nay, Đảng ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định một trong ba đột phá chiến lược để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại là: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Đó cũng chính là một trong bảy nhiệm vụ trọng tâm được Đảng ta tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong giai đoạn tới. Sau nhiều thập niên tập trung sức phát triển tổng thể nguồn nhân lực theo diện rộng, đến nay trình độ dân trí của vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã được nâng lên đáng kể. Về cơ bản, chúng ta đã thực hiện thành công sự nghiệp xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; quy mô đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tiếp tục tăng với tốc độ cao; trình độ tay nghề, chuyên môn kỹ thuật của lao động nước ta cũng được nâng lên; tiềm lực và trình độ khoa học - công nghệ trong nước đã có những bước phát triển đáng kể... Đặc biệt, Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng yêu cầu xác định rõ mục tiêu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn tới, nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc và “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc,… khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điểm mới trong Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt; bảo đảm thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn; giảm tỷ lệ lao động khu vực phi hình thức. Hình thành đội ngũ lao động hành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động. Trong đó, đặt ra mục tiêu Việt Nam tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế, vì vậy yêu cầu hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục và đào tạo. “Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh”. Thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động. Tiếp tục hoàn thiện các khâu, các yếu tố của quá trình đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Việt Nam có 54 dân tộc cùng sinh sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số và 53 dân tộc thiểu số (chiếm khoảng 14,3% dân số cả nước). Các dân tộc thiểu số ở nước ta sinh sống trên địa bàn chiếm gần 3/4 diện tích tự nhiên, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Đảng và Nhà nước luôn xác định công tác dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm luôn chứng minh tinh thần đoàn kết của đồng bào các dân tộc thiểu số đã góp phần làm nên những giá trị cốt lõi của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Lịch sử cũng chứng minh trong quá trình thực hiện các cuộc cách mạng, các cuộc kháng chiến đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập, tự do cho dân tộc từ năm 1930 đến nay, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng vùng dân tộc thiểu số, xác định đây là một địa bàn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tất cả các dân tộc, bất kỳ to hay là nhỏ, đều phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà”; “Miền núi nước ta chiếm vị trí quan trọng đối với quốc phòng, đối với kinh tế. Vì vậy, Trung ương Đảng và Chính phủ, mà trực tiếp là các cấp uỷ đảng, các uỷ ban địa phương... phải làm sao nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào các dân tộc”2…, khi sự nghiệp cách mạng hoàn thành, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục chăm lo đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo… Trong đó đặc biệt quan tâm tới công tác giáo dục - đào tạo, nâng cao trình độ dân trí cho vùng này.
Những năm qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách tác động trực tiếp và gián tiếp đến phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Về trực tiếp, đó là các chính sách: cấp thẻ bảo hiểm miễn phí cho người nghèo, người dân tộc thiểu số; chương trình phòng, chống sốt rét; phòng chống bướu cổ; HIV/AIDS; tiêm chủng mở rộng; chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em; chính sách xây dựng và phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú; chính sách cử tuyển học sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp; chính sách ưu tiên điểm đối với học sinh thi đại học, cao đẳng; chính sách hỗ trợ học sinh là con hộ nghèo đi học tại các xã đặc biệt khó khăn; chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên; đề án hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn là người dân tộc thiểu số theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg; chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình. Về gián tiếp, một số chính sách có tác động đến phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc, miền núi là: Dự án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ cơ sở và cộng đồng bằng nguồn vốn của Chương trình 135 giai đoạn II; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo với các hoạt động như: tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật, đào tạo nghề miễn phí cho lao động nghèo, miễn giảm học phí, hỗ trợ sách giáo khoa, vở viết cho học sinh nghèo; Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại 63 huyện nghèo với các hoạt động: đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, ngoại ngữ để đưa người đi xuất khẩu lao động...
Chính phủ cũng đã có nhiều chủ trương, chính sách về phát triển nguồn nhân lực nhằm khai thác tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nhiều chủ trương chính sách trực tiếp liên quan đến giáo dục - đào tạo đã được thực hiện như: Chính sách xây dựng và phát triển hệ thống các trường phổ thông nội trú theo Thông tư số 16/GDĐTngày 14/8/1997 và Quyết định số 49/QĐ-GDĐT ngày 25/8/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Chính sách cử tuyển học sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp thực hiện theo Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị và Quyết định số 72/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 13/3/1990. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai chính sách tuyển sinh, mở các lớp cử tuyển tại một số trường đại học, cao đẳng, trung cấp nhằm đáp ứng yêu cầu về cán bộ là người dân tộc thiểu số tại địa phương; Chính sách ưu tiên điểm đối với học sinh thi đại học, cao đẳng được Bộ Giáo dục Đào tạo ban hành hàng năm là một trong những chính sách tạo cơ hội học cao đẳng, đại học học tập cho học sinh tại các vùng miền có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; Chính sách hỗ trợ học sinh là con hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 112 2007/QĐ-TTg; Đề án hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg; Chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên theo Quyết định số 157/QĐ-TTg hướng đến đối tượng cho vay khá rộng gồm học sinh, sinh viên thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo…
Đồng thời, Nhà nước cũng ban hành một số chính sách có ảnh hưởng gián tiếp đến phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tiêu biểu là Chương trình 135 giai đoạn II, III; Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 63 huyện nghèo… Giai đoạn 2016-2020, Bộ Giáo dục và đào tạo tiếp tục ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền, hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm củng cố, phát triển hệ thống, quy mô các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, dự bị đại học góp phần nâng cao chất lượng tạo nguồn đào tạo nhân lực chất lượng cao cho đồng bào các dân tộc thiểu số.
Đến nay, cả nước có 63/63 tỉnh thành đạt phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập trung học cơ sở. Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú ở các tỉnh và Trung ương không ngừng được củng cố và phát triển. Vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã có 4 trung tâm đại học khu vực: Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Hệ thống trường đào tạo nghề, trường cao đẳng được củng cố, phát triển. Tất cả các xã ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc đã có trường tiểu học, một số xã hoặc liên xã đã có trường phổ thông cơ sở thu hút phần lớn con em đồng bào dân tộc đến trường.
Có thể nói, phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong giai đoạn hiện nay nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào một cách bền vững. Đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, cần thời gian dài nên phải được xác định là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi cần phải thực hiện đồng bộ nhiều nhiệm vụ: Đào tạo sau đại học; đại học; cao đẳng; trung cấp chuyên nghiệp; xóa mù chữ; đào tạo nghề ngắn hạn; đào tạo nghề trình độ sơ cấp cho các hộ nghèo về kỹ thuật, khoa học công nghệ phục vụ phát triển sản xuất, kiến thức phát triển kinh tế hộ gia đình; đào tạo nghề phi nông nghiệp và trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề cho thanh niên; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, năng lực quản lý hành chính, quản lý kinh tế - xã hội theo chức danh, vị trí làm việc đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành và thực thi công vụ cho cán bộ, công chức xã đạt chuẩn theo quy định...
Trong các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi bảo đảm tính bền vững thì giải pháp về giáo dục, đào tạo có ý nghĩa quyết định, trong đó vấn đề hợp tác quốc tế là một trong những giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Để hợp tác quốc tế gắn với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của nguồn nhân lực làm công tác dân tộc, nhất là đối với cán bộ là người dân tộc thiểu số trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực gắn với rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách cho phù hợp với yêu cầu công tác dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
Ba là, gắn kết chặt chẽ giữa quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực làm công tác dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.
Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Năm là, khuyến khích và có cơ chế chính sách đặc thù cho các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi nhằm xây dựng phát triển một số ngành đạt trình độ quốc tế, đầu tư một cách toàn diện để phát triển cả đội ngũ cán bộ, chương trình, giáo trình, trang thiết bị hiện đại và trình độ nghiên cứu khoa học cao để từ đó xây dựng các bộ môn, các khoa, các trường đại học đạt trình độ quốc tế.
Sáu là, vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao trong việc phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, những năm qua, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao dân tộc thiểu số, nhất là lĩnh vực hợp tác quốc tế gắn với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao dân tộc thiểu số cần tiếp tục được quan tâm thường xuyên (chế độ, chính sách đãi ngộ, tôn vinh, sử dụng nhân tài còn không kịp thời...). Các địa phương vùng dân tộc thiểu số và miền núi cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có hợp tác quốc tế với đào tạo nguồn nhân lực dân tộc thiểu số đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, giảm nghèo đa chiều bền vững trong kỷ nguyên mới…
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. Hội đồng Lý luận Trung ương, “Những điểm mới trong các Văn kiện đại hội XIII của Đảng”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
4. Ủy ban Dân tộc (2011), “Hiện trạng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số và khuyến nghị các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi, dự án EMPCD - dự án hỗ trợ Tăng cường Năng lực Xây dựng, Thực hiện và Giám sát Chính sách”.
5. Ủy ban Dân tộc (2019), “Báo cáo kết quả điều tra tình hình kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019”.
6. Vụ Giáo dục Dân tộc, (2020). “Chú trọng công tác hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho các dân tộc thiểu số”.