
Trong năm 2024, các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội được triển khai tích cực với phương châm: Kỷ cương trách nhiệm, chủ động kịp thời, tăng tốc sáng tạo, hiệu quả bền vững, không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm, đã nói là làm, đã cam kết là phải thực hiện, đã làm, đã thực hiện là phải có hiệu quả. Đảng đã chỉ đạo, Chính phủ đã thống nhất, Quốc hội đồng tình, chỉ bàn làm, không bàn lùi.
Phát biểu tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, Thủ tướng Phạm Minh Chính trình bày: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã bám sát tinh thần thực tiễn, tập trung chỉ đạo, triển khai quyết liệt, linh hoạt hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp. Trong đó, ưu tiên tăng trưởng, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống như đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; Rà soát, đánh giá tình hình và dự kiến kết quả phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 - 2025), từ đó có giải pháp đột phá theo tinh thần, chỉ tiêu nào chưa đạt thì phải quyết tâm hoàn thành, chỉ tiêu nào đạt rồi thì phải nâng cao chất lượng và hiệu quả”.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2024, tăng trưởng kinh tế Việt Nam ước đạt trên 7% GDP (vượt mục tiêu đề ra là 6 - 6,5% GDP), thuộc nhóm số ít các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát dưới 4%, tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân tăng 3,78% (tính đến tháng 10/2024). Xuất khẩu gạo đạt trên 8,5 triệu tấn, kim ngạch trên 5,3 tỷ USD (tính đến tháng 11/2024), tăng lần lượt 10,6% và 22,4% so với cùng kỳ năm 2023. Bội chi, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài thấp hơn chỉ tiêu cho phép. Thị trường tiền tệ, tỷ giá cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất tiếp tục có xu hướng giảm so với năm 2023. Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023.
Kinh tế số Việt Nam tiếp tục là một trong những điểm sáng của phát triển kinh tế - xã hội. Theo báo cáo “Kinh tế số Đông Nam Á năm 2024” do Google - Temasek công bố, năm 2024, quy mô nền kinh tế internet Việt Nam đạt 36 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2023. Thương mại điện tử bán lẻ tiếp tục là trụ cột với 22 tỷ USD, tăng 18% và chiếm 61% tổng quy mô nền kinh tế internet. Thị trường thương mại điện tử và kinh tế số Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn và trở thành một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử của Việt Nam năm 2024 cũng nằm trong top 10 của thế giới. Dự kiến, thương mại điện tử sẽ đạt 45 tỷ USD năm 2025. Với thị trường 100 triệu dân, chiếm 1,23% dân số thế giới, nằm cạnh các thị trường lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, ASEAN cho thấy tiềm năng phát triển thương mại điện tử của Việt Nam còn rất lớn. Theo xếp hạng của Liên hợp quốc, năm 2024, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143 các nước trên thế giới. Mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là nhờ sự phục hồi của hoạt động sản xuất, xuất khẩu, du lịch và đầu tư. Xuất nhập khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã trở thành điểm sáng nổi bật, phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư quốc tế đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Nói về sự phát triển của kinh tế - xã hội Việt Nam trong năm 2024, ông Đào Xuân Lai, Phó Trưởng Đại diện Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Lào nhận định: Việt Nam đã có bước phát triển đột phá, đã đổi mới tư duy kinh tế, từ kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là điểm mấu chốt trong thành công của kinh tế của Việt Nam. Ông Lai cho hay, sau gần 40 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế Việt Nam đã đạt 430 tỷ USD vào năm 2023, thuộc nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đặc biệt thuộc nhóm 5 nền kinh tế hàng đầu của ASEAN. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người đã đạt gần 4.300 USD và tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều hiện chỉ còn 2,9%. Đây là những kết quả rất đáng vui mừng, đặc biệt với xuất phát điểm của Việt Nam là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chỉ đạt 26,3 tỷ USD vào thập niên 80 của thế kỷ trước.
Việt Nam đã hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, tạo ra nền kinh tế mở và tăng kim ngạch xuất khẩu cũng như thu hút đầu tư. Một số thành tựu về hoạt động xuất nhập khẩu trong năm 2024 có thể kể đến như: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 715 tỷ USD (tháng 11/2024), tăng 15,3%; xuất siêu trên 23 tỷ USD; ước cả năm khoảng 807,7 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay; tiếp tục khai thác hiệu quả những thị trường quốc tế như Mỹ, Liên minh châu Âu, và các nước ASEAN.
Nền kinh tế mở của Việt Nam rất lớn, là một trong 5 nền kinh tế có độ mở lớn nhất trên thị trường. Việt Nam đã có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đặc biệt, Việt Nam đã tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương, trong đó có 17 Hiệp định thương mại tự do, bao gồm Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Các hiệp định này được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều cơ hội phát triển cho nền kinh tế Việt Nam thông qua việc mở rộng xuất khẩu, đầu tư và ứng dụng khoa học, công nghệ. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đến năm 2030 dự kiến sẽ tăng thêm 44,4%; xuất khẩu sang các nước CPTPP tăng 14,3% năm 2035.
Năm 2024, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng mạnh, xấp xỉ 330%. Đây cũng là năm đánh dấu sự mở rộng quan hệ của Việt Nam với nhiều đối tác lớn trên thế giới, trong đó có việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ (tháng 10/2023), với Australia (tháng 3/2024) và Pháp (tháng 10/2024). Thỏa thuận với các đối tác đã đem lại những lợi ích kinh tế to lớn, trong đó có việc phát triển thị trường xuất khẩu và thu hút các nhà đầu tư quốc tế. Mới đây, Apple - hãng công nghệ lớn của Mỹ - đã chọn Việt Nam làm địa điểm sản xuất quan trọng với khoản đầu tư hơn 15 tỷ USD.
Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chỉ tính riêng 11 tháng đầu năm 2024, Việt Nam đã thu hút được khoảng 31,4 tỷ USD, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo. Đây là điểm sáng của phát triển kinh tế Việt Nam. Năm 2024, Việt Nam nằm trong nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới; thu hút FDI đạt 31 tỷ USD (tính đến tháng 11/2024), vốn FDI thực hiện đạt 20,4 tỷ USD, tăng 7%, cao nhất trong giai đoạn 5 năm (2020 - 2024). Năm 2024 cũng ghi nhận 15 công ty Mỹ đầu tư vào Việt Nam với tổng số tiền hơn 8 tỷ USD.
Trong chuyển dịch mô hình kinh tế tăng trưởng và công nghiệp hóa, Việt Nam đã chuyển dịch từ việc giảm khu vực nông nghiệp sang khu vực dịch vụ và công nghiệp theo hướng hiện đại hơn, theo ông Đào Xuân Lai. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 7% (tính đến tháng 10/2024) so với cùng kỳ, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 9,6%, là những ngành động lực dẫn dắt cho tăng trưởng kinh tế. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) đạt 51,2 điểm, cho thấy sản xuất công nghiệp đã phục hồi nhanh.
Khi nền kinh tế Việt Nam chuyển dịch như vậy sẽ giúp thúc đẩy tăng giá trị gia tăng của nền kinh tế cũng như các ngành kinh tế của Việt Nam. Điều quan trọng là kinh tế Việt Nam đảm bảo sự phát triển bao trùm, không ai bị bỏ lại phía sau. Việt Nam đã tạo cơ chế tự chủ cho người dân, sự tham gia và hưởng lợi của người dân cũng như doanh nghiệp, để doanh nghiệp và người dân không ỷ lại và trông chờ vào bên ngoài. Đặc biệt là việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp, thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Du lịch hồi phục là một yếu tố quan trọng khác thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển trong năm 2024. Du lịch phát triển đã kích thích cầu tiêu dùng gia tăng, từ đó lan tỏa mạnh tới sản xuất của nhóm ngành dịch vụ khác như vận tải, lưu trú, ăn uống, lữ hành, hoạt động nghệ thuật, vui chơi giải trí - những yếu tố tích cực trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Năm 2024, lượng khách quốc tế đến Việt Nam ghi nhận đạt khoảng 14,1 triệu lượt người, tăng 41,3% (tính đến tháng 10/2024) so với cùng kỳ năm 2023; phấn đấu đón 25 - 28 triệu lượt khách quốc tế và 130 triệu lượt khách nội địa vào năm 2025.
Bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập và tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Ổn định kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro và chịu nhiều áp lực lớn; tăng trưởng tín dụng còn khó khăn, nợ xấu có nguy cơ gia tăng; giải ngân vốn đầu tư công thấp hơn so với cùng kỳ năm 2023. Thị trường bất động sản đã có chuyển biến nhưng chưa rõ nét; áp lực lớn trả nợ trái phiếu doanh nghiệp đến hạn. Sản xuất nông nghiệp, du lịch tại một số địa phương bị ảnh hưởng nặng nề do thiên tai, bão lũ. Hoạt động sản xuất, kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực còn khó khăn; sức ép cạnh tranh gia tăng. Xuất khẩu dự báo khó khăn hơn trong thời gian tới do yếu tố bên ngoài. Nhiều dự án gặp khó khăn, vướng mắc về pháp lý nhưng chưa được kịp thời tháo gỡ.
Tỷ giá hối đoái và áp lực lạm phát từ bên ngoài vẫn là những yếu tố tiềm ẩn, ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế. Xuất siêu chủ yếu vẫn dựa vào khu vực đầu tư nước ngoài, cho thấy tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp... Điều này tạo ra sự bất ổn trước những thay đổi trong chính sách thương mại toàn cầu. Năm 2024 cũng là năm ghi nhận nhiều doanh nghiệp rút khỏi thị trường,
Về mục tiêu và định hướng phát triển của kinh tế - xã hội Việt Nam trong năm 2025: Tiếp tục ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; Hoàn thiện thể chế pháp luật, phát triển hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn. Phát triển văn hóa, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân; Đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; Đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế, nâng cao uy tín, vị thế nước ta trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, cần hoàn thành tốt nhất 11 mục tiêu, giải pháp, như ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, tiếp tục làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới, giữ vững ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; Tập trung hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, nhất là các dự án mang tính chiến lược về hạ tầng giao thông, năng lượng, thích ứng với biến đổi khí hậu.