Ngày 28/11, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh, các đại biểu thảo luận về việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Các đại biểu đề xuất nhiều nội dung quan trọng liên quan đến việc bổ sung hạ tầng trọng yếu, hoàn thiện cơ chế triển khai và điều chỉnh một số mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế - xã hội.

Kiến nghị bổ sung hạ tầng chiến lược, ưu tiên phát triển các tuyến đường sắt trọng yếu
Tại Nghị trường, đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà (Quảng Ninh) cho biết, qua đối chiếu với quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh và hồ sơ phân tích nhu cầu phát triển, một số hạ tầng chiến lược đã được cập nhật trong danh mục điều chỉnh.
Đại biểu đánh giá việc cập nhật một số hạ tầng chiến lược là phù hợp, bao gồm đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh kéo dài đến các trung tâm các tỉnh lân cận. Cụ thể, hai tuyến đường sắt được đề xuất bổ sung vào điều chỉnh quy hoạch, được Bộ Tài chính nghiên cứu tiếp thu giải trình là: Tuyến đường sắt Hải Phòng - Hạ Long - Móng Cái; Tuyến đường sắt tốc độ cao Hà Nội - Quảng Ninh. Việc xem xét đưa hai tuyến đường sắt này vào quy hoạch được cho là phù hợp, cấp thiết và có đủ cơ sở khoa học thực tiễn. Đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà cũng cho rằng việc Chính phủ cho phép nghiên cứu mở rộng mạng đường sắt tốc độ cao ngoài trục Bắc Nam, ưu tiên các trục có nhu cầu lớn về du lịch, dịch vụ, thương mại, là cơ hội để thu hút đầu tư và phát triển kinh tế vùng.
Bên cạnh đó, đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà đề nghị xem xét việc đưa cảng Con Ong - Hòn Nét của tỉnh Quảng Ninh vào quy hoạch quốc gia. Đại biểu cho rằng cơ quan soạn thảo đã phân tích chưa thỏa đáng về việc này. Cảng Con Ong - Hòn Nét được cho là có đầy đủ cơ sở pháp lý và luận chứng kỹ thuật để đáp ứng tiêu chí quy hoạch quốc gia. Về quy mô dự kiến hai cầu cảng tổng hợp và container rời, chiều cao 9m, chiều dài 950m. Tàu tổng hợp container trọng tải lên đến 100.000 tấn (hoặc lớn hơn khi đủ điều kiện) và tàu hàng rời trọng tải lên đến 200.000 tấn (hoặc lớn hơn khi đủ điều kiện); tàu lớn vào được có thể tự xoay trong cảng. Về năng lực thông qua hàng hóa đáp ứng nhu cầu từ 4,5 triệu tấn đến 6 triệu tấn. Mặt hàng chủ yếu là hàng tổng hợp và container, bổ sung năng lực tiếp nhận hàng tàu lớn, giảm tải cho cảng Cái Lân.

Ngoài ra, Cảng sẽ gắn với các khu kinh tế cửa khẩu, sân bay Vân Đồn nối với cao tốc Hạ Long - Móng Cái, là cảng cửa ngõ xuất nhập khẩu biên giới Việt - Trung. Cảng này là điểm đến của hệ thống hàng hóa đi qua Quốc lộ 4B (Lạng Sơn - Quảng Ninh) sau khi được nâng cấp mở rộng. Giúp tăng cường xuất khẩu sang Quảng Tây - Trung Quốc, cảng trung chuyển hàng hóa từ Trung Quốc sang ASEAN và qua biển Việt Nam, mở rộng logistics xuyên biên giới, đồng thời góp phần củng cố quốc phòng an ninh.
Đại biểu nhấn mạnh, năng lực cảng biển hiện tại của Quảng Ninh (như Cái Lân, Vạn Gia, Mũi Chùa) còn hạn chế, chưa đồng bộ với các phương thức vận tải khác đã được đầu tư đồng bộ như đường không, đường bộ cao tốc, đường sắt. Việc bổ sung cảng Con Ong- Hòn Nét sẽ góp phần vào hệ thống cảng biển quốc gia, giải quyết các nhóm hàng hóa đặc thù (nhất là hàng rời), hình thành cụm cảng nước sâu, tạo mạng lưới liên kết, tăng sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Điều này cũng cải thiện kết nối logistics, thu hút đầu tư tư nhân, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân.

Phát triển đường sắt kết nối nội tỉnh, liên tỉnh
Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh (Ninh Bình) đánh giá cao sự chuẩn bị hồ sơ của cơ quan soạn thảo, đồng tình với chủ trương ưu tiên đường sắt trên các hành lang kinh tế lớn. Tuy nhiên, sau khi sáp nhập các đơn vị hành chính, nhiều tỉnh mới có quy mô rất lớn, với khoảng cách giữa tỉnh lị cũ và mới lên tới vài chục, thậm chí hàng trăm km. Đại biểu cho rằng, nếu chỉ phát triển các trục đường sắt xương sống quốc gia mà thiếu đi tầng kết nối nội tỉnh, liên tỉnh, người dân và doanh nghiệp vẫn phụ thuộc chủ yếu vào đường bộ, gây áp lực lên cao tốc, quốc lộ. “Điều này sẽ khó đạt mục tiêu giảm chi phí logistics và dịch chuyển cơ cấu vận tải từ đường bộ sang đường sắt”, đại biểu Trần Thị Hồng Thanh nhấn mạnh.
Từ thực tiễn đó, đại biểu đề nghị bổ sung nội dung về đường sắt trong Nghị quyết. Cụ thể, bên cạnh nội dung đầu tư các tuyến đường sắt đầu mối, cần bổ sung nội dung “và đường sắt kết nối nội tỉnh, liên tỉnh ở một số địa phương”. Theo đại biểu, mở ra khuôn khổ pháp lý để các quy hoạch ngành và quy hoạch tỉnh xây dựng các tuyến đường sắt vùng, đường sắt nội tỉnh phù hợp với nhu cầu thực tế. Những tuyến này sẽ kết nối tỉnh thành mới với tỉnh thành cũ, kết nối các khu công nghiệp, trung tâm logistics, vùng du lịch di sản với mạng lưới đường sắt quốc gia và đường sắt tốc độ cao trong tương lai; giúp chia sẻ lưu lượng với đường bộ, hỗ trợ hình thành các cực tăng trưởng cấp tỉnh, tiểu vùng theo tinh thần tổ chức lại không gian phát triển sau sáp nhập. Đồng thời, hiện thực hóa mục tiêu tăng thị phần vận tải đường sắt, giảm chi phí logistics và khai thác hiệu quả không gian phát triển mới.
Chú trọng đầu tư hạ tầng đô thị
Đại biểu Trần Hoàng Ngân (Đoàn ĐBQH Thành phố Hồ Chí Minh) đánh giá cao nỗ lực của Ban soạn thảo, cho rằng việc sửa đổi là phù hợp với việc sắp xếp đơn vị hành chính, hiện thực hóa chủ trương của Đảng (ba nghị quyết của Bộ Chính trị) và thích ứng với bối cảnh quốc tế biến động nhanh, phức tạp.
Về phát triển kết cấu hạ tầng, đại biểu Trần Hoàng Ngân nhấn mạnh đến cụm từ "hạ tầng đô thị lớn". Hạ tầng đô thị bao gồm hạ tầng xã hội (y tế, văn hóa, giáo dục) và hạ tầng kinh tế, rất cần cho tất cả các đô thị chứ không chỉ đô thị lớn. Do đó, đại biểu đề nghị bỏ từ "lớn" trong cụm từ này, để thể hiện tất cả các hạ tầng đô thị cần được đầu tư đồng bộ.
Đại biểu cũng nhấn mạnh về phân vùng kinh tế xã hội của sáu vùng, cụ thể:

Vùng Trung du và miền núi phía Bắc: Đồng ý với các nội dung đã ghi, nhưng đại biểu đề nghị lưu ý nội dung "Tăng cường năng lực phòng chống thiên tai, nhất là lũ lụt, sạt lở, khai thác hiệu quả sử dụng tài nguyên khoáng sản". Đại biểu cho rằng có sự "lấn cấn" giữa việc phòng chống thiên tai và khai thác tài nguyên khoáng sản. Do đó, đề nghị không để đoạn văn "khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản" trong nội dung này để đảm bảo phòng chống thiên tai.
Vùng Đồng bằng sông Hồng: Đây là vùng trọng điểm có tốc độ tăng trưởng cao. Cần quan tâm đến việc đảm bảo không gian văn hóa và di sản của dân tộc, trong đó chú ý việc quy hoạch đối với các làng nghề; công nghiệp, văn hóa, du lịch, y tế, giáo dục; công nghệ cao.
Vùng Bắc Trung Bộ: Đại biểu đồng tình với các ý kiến phát biểu trước, quan tâm đến vấn đề về văn hóa, lịch sử và tâm linh.
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên: Trước sự tàn phá nặng nề của lũ lụt, đại biểu đề nghị hết sức thận trọng trong việc phát triển chuỗi đô thị ven biển. Công tác quy hoạch phải đảm bảo được năng lực phòng chống thiên tai, nhất là quy hoạch nhà ở.

Vùng Đông Nam Bộ: Đại biểu nhấn mạnh, đây là vùng động lực tăng trưởng quan trọng, với ba tỉnh đóng góp 960.000 tỷ đồng, chiếm 38% GDP cả nước. Để vùng có thể lan tỏa, chia sẻ sự phát triển, cần ưu tiên đầu tư hạ tầng kết nối (quốc tế, vùng, liên vùng, kết nối với Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long). Ngoài việc đưa sớm xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ, khai thác cảng hàng không Tân Sơn Nhất, Long Thành, cần lưu ý thêm cảng Côn Đảo, một cảng có ý nghĩa giá trị lịch sử.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Đây là khu vực đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, nhưng vẫn chưa tự chủ được tài chính, một trong những lý do là thiếu hạ tầng kết nối. Do đó, cần quan tâm hơn đến hạ tầng kết nối tại khu vực này. Tại vùng đô thị Cần Thơ, cần thêm điểm nhấn là trung tâm kinh tế, thương mại, dịch vụ, logistics, công nghiệp chế biến thực phẩm (nhấn mạnh), trung tâm nông nghiệp công nghệ cao và các trung tâm nghiên cứu về giống cây trồng.
Các đại biểu cũng đề nghị hoàn thiện các yếu tố đảm bảo triển khai như nguồn lực, tiến độ và cơ chế điều phối. Thực tiễn cho thấy quy hoạch tốt nhưng việc triển khai chậm, chủ yếu do ba nút thắt: Nguồn lực, tiến độ và cơ chế điều phối. Đại biểu đề nghị làm rõ cơ chế cân đối nguồn lực, rà soát tiến độ ưu tiên và hoàn thành các dự án cấp bách trước năm 2030, xác định cơ quan điều phối liên ngành, đủ thẩm quyền./.