
Sáng 30/11, Đoàn giám sát về thực hiện giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành” phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường, UBND TP Hải Phòng tổ chức Hội thảo với chủ đề “Thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững kinh tế biển và kinh tế tuần hoàn”. Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Trưởng đoàn Giám sát chủ trì Hội thảo.
Tham dự Hội thảo có Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thanh Hải; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tạ Đình Thi; Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH TP Hải Phòng Lã Thanh Tân; Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành cùng các thành viên Đoàn giám sát; đại diện các Bộ ngành, các địa phương ven biển trọng điểm, các Tập đoàn kinh tế lớn và các viện nghiên cứu đầu ngành.
Hiện trạng, tiềm năng phát triển kinh tế biển và kinh tế tuần hoàn
Hội thảo tập trung phân tích đánh giá hiện trạng, tiềm năng phát triển kinh tế biển và kinh tế tuần hoàn, nghiên cứu những mô hình thực tế tại các địa phương, nhận diện các “điểm nghẽn” về pháp lý và đề xuất giải pháp đột phá để phát triển năng kinh tế biển gắn với bảo vệ môi trường, chuyển dịch từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn góp phần hiện thực hóa cam kết Net Zero vào năm 2050.
Phát biểu khai mạc tại hội thảo, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nguyễn Thanh Hải khẳng định "Biển không chỉ là tài nguyên, mà còn là không gian văn hóa, là nguồn lực phát triển. Không thể phát triển kinh tế biển bền vững nếu các hoạt động của con người tác động, làm biển bị tổn thương". Ngoài ra, những vướng mắc trong thực thi chính sách pháp luật bảo vệ môi trường, phát triển bền vững kinh tế biển và kinh tế tuần hoàn cần được tháo gỡ kịp thời. Những kiến nghị từ Hội thảo sẽ là nguồn thông tin quan trọng để Đoàn giám sát của Quốc hội tổng hợp, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội; đồng thời là cơ sở để tiếp tục kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài nguyên, môi trường biển; bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và an sinh xã hội.

Xây dựng hành lang pháp lý chuyên biệt cho kinh tế biển xanh
Trong khuôn khổ Hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận, đóng góp ý kiến vào các vấn đề cấp thiết nhằm phát triển kinh tế biển hiệu quả, bền vững như: Xu hướng phát triển kinh tế biển và định hướng phát triển khoa học công nghệ biển phục vụ kinh tế biển xanh; Kinh tế tuần hoàn trong nuôi trồng thủy sản và nuôi biển công nghiệp; Chuyển đổi xanh trong lĩnh vực hàng hải và đường thủy Việt Nam; Du lịch xanh gắn với bảo tồn; Khoa học công nghệ và Dữ liệu biển; Bảo tồn đa dạng sinh học, ứng dụng công nghệ sinh học biển; Phát triển công tác khuyến ngư; Chuyển đổi năng lượng xanh.
Ngoài ra, các đại biểu cũng đã thẳng thắn chỉ ra các hạn chế, rào cản lớn đang kìm hãm sự phát triển kinh tế biển bền vững và kinh tế tuần hoàn như: Thiếu hụt hành lang pháp lý đồng bộ (các quy định về kinh tế tuần hoàn, kinh tế biển xanh còn nằm rải rác, chưa có Luật riêng hoặc các hướng dẫn cụ thể về ưu đãi tài chính, thuế, tín dụng xanh); Hạ tầng kỹ thuật yếu (thiếu hệ thống thu gom, xử lý chất thải tại các cảng cá, vùng nuôi trồng thủy sản và các đặc khu, xã đảo); Nguồn lực hạn chế (Đầu tư cho điều tra cơ bản và công nghệ tái chế chưa tương xứng với tiềm năng)...
Ông Nguyễn Như Hạnh, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Ninh kiến nghị Quốc hội tiếp tục quan tâm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, trong đó đặc biệt cần sớm rà soát, điều chỉnh thống nhất các quy định tại các luật liên quan như Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo, Luật Thủy sản, Luật Biển Việt Nam... nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, rõ ràng và có tính thực thi cao. Việc xây dựng hành lang pháp lý chuyên biệt cho kinh tế biển xanh là yêu cầu cấp thiết, để bảo đảm các địa phương ven biển như Quảng Ninh có đủ công cụ pháp lý trong quy hoạch, giám sát, kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ hệ sinh thái biển – đảo lâu dài.

Đối với Chính phủ, cần quan tâm bổ sung các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình đầu tư công trung hạn và chương trình biến đổi khí hậu giai đoạn 2026 - 2030, có nội dung riêng dành cho vùng biển – đảo, đặc biệt là hỗ trợ các địa phương đầu tư hạ tầng xử lý môi trường ở vùng hải đảo, hệ thống quan trắc môi trường biển tự động, và công nghệ xử lý chất thải nhựa đại dương gắn với các mục tiêu phát triển bền vững. Đồng thời, Quảng Ninh cũng đề xuất Chính phủ chỉ đạo tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương đảng về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trong giai đoạn 2026 – 2030; trong đó phân công trách nhiệm rõ ràng cho các bộ ngành và địa phương, có cơ chế phối hợp vùng hiệu quả giữa các tỉnh ven biển.
Đề cập về công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển, ông Trương Đức Trí, Phó Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam nhấn mạnh, biển Việt Nam là không gian sinh tồn, là động lực phát triển mới và là một trong những trụ cột quan trọng của chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn tới. Nghị quyết số 36-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương đã xác định rõ mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, phát triển kinh tế biển bền vững dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, quản lý tổng hợp và sử dụng hiệu quả tài nguyên, môi trường biển. Theo định hướng này, dữ liệu điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường biển - hải đảo được xác định là yếu tố nền tảng, đóng vai trò như “hệ thống thông tin đầu vào bắt buộc” cho mọi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển và hoạt động kinh tế biển, bảo đảm an toàn, hiệu quả và bền vững.
Điều tra cơ bản biển cung cấp hệ thống thông tin chuẩn xác về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi trường, phục vụ trực tiếp cho nhiều ngành kinh tế biển trụ cột. Chẳng hạn, các kết quả đo đạc địa hình đáy biển, bản đồ hải đồ hiện đại là cơ sở để phát triển vận tải biển, thiết kế cảng biển, phục vụ tìm kiếm cứu nạn, du lịch biển và bảo đảm quốc phòng - an ninh.
Theo ông Trương Đức Trí, điều tra cơ bản biển không chỉ là nhiệm vụ khoa học - kỹ thuật, mà còn là yêu cầu thiết yếu để hiện thực hóa các mục tiêu lớn của Nghị quyết số 36-NQ/TW. Kết quả điều tra là căn cứ để quản lý tổng hợp vùng bờ, phân vùng chức năng không gian biển, lập quy hoạch ngành, đồng thời phục vụ phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, gìn giữ hệ sinh thái biển và khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển. Đây chính là nền tảng thông tin quan trọng, đảm bảo cho sự phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững của kinh tế biển Việt Nam trong giai đoạn mới.

Bảo vệ môi trường biển là trách nhiệm chung
Tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành nhấn mạnh, tài nguyên biển là hữu hạn, nhưng trách nhiệm của chúng ta trước biển là vô hạn. Chỉ khi từng Bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp thực hiện tốt những quy định pháp luật, tôn trọng môi trường và tôn trọng những giá trị của biển thì Việt Nam mới có thể xây dựng được một nền kinh tế biển bền vững, giàu tính cạnh tranh và phù hợp với xu thế toàn cầu.
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan đánh giá cao các đại biểu đã có những đóng góp, đề xuất quan trọng nhằm thực hiện hiệu quả chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững kinh tế biển và kinh tế tuần hoàn.
Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, các ý kiến đóng góp đều thống nhất rằng kinh tế biển đang đứng trước thời cơ lớn từ chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, phát triển kinh tế tuần hoàn và các mô hình kinh tế mới, như nuôi biển công nghiệp, logistics biển, năng lượng tái tạo ngoài khơi.
Các đại biểu cũng nhận định áp lực môi trường ngày càng gia tăng, đặc biệt là rác thải nhựa đại dương, trong đó nguồn thải từ hoạt động tàu cá, nuôi trồng, du lịch và cộng đồng ven biển vẫn còn lớn. Suy thoái hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển, nguồn lợi thủy sản. Ô nhiễm cục bộ tại các khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển, cảng biển, cơ sở đóng tàu, chế biến thủy sản.
Khoảng trống pháp lý và hạn chế trong tổ chức thực thi, cũng được nhận diện, phân tích chi tiết: Quy định về quản lý hoạt động nuôi biển công nghiệp, tuần hoàn chất thải từ nuôi biển và chế biến thủy sản chưa đầy đủ, thiếu cơ chế bắt buộc phân loại - thu hồi - tái sử dụng. Quy hoạch không gian biển quốc gia chưa được cụ thể hóa đồng bộ với quy hoạch vùng bờ, dẫn đến xung đột sử dụng không gian.
Công tác điều tra cơ bản tài nguyên - môi trường biển chưa đáp ứng yêu cầu dữ liệu cho quản lý, giám sát. Sự thiếu vắng cơ chế khuyến khích, chế tài và giải pháp kiểm soát hiệu quả chất thải từ tàu cá, cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão.

Hội thảo ghi nhận được nhiều gợi mở quan trọng cho hoạch định chính sách thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn trong nuôi biển, trong đó chất thải hữu cơ được xử lý và tái sử dụng, chất thải nhựa được thu gom và tái chế thành vật liệu mới. Phát triển các chuỗi giá trị xanh trong khai thác, chế biến, logistics thủy sản, gắn tiêu chuẩn quốc tế về truy xuất nguồn gốc, phát thải thấp. Đẩy mạnh khoa học - công nghệ trong quản lý không gian biển, đặc biệt là công nghệ quan trắc, hệ thống thông tin địa lý, cảm biến tự động, vật liệu phân hủy sinh học thay thế nhựa dùng trong ngư nghiệp. Tăng cường phối hợp liên ngành, liên vùng; liên kết chặt chẽ giữa quản lý tài nguyên và môi trường biển, chính sách pháp luật thủy sản, hàng hải, du lịch, công nghiệp.
Trên cơ sở các ý kiến đóng góp trí tuệ, xác đáng tại Hội thảo, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan nêu một số định hướng lớn:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về biển, trong đó tập trung vào sửa đổi, bổ sung Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo, Luật Thủy sản, Luật Bảo vệ môi trường, đảm bảo tính đồng bộ, tính dự báo, bám sát các xu thế công nghệ mới và cam kết quốc tế.
Thứ hai, nghiên cứu cơ chế, chính sách đồng bộ để hình thành nền kinh tế biển xanh và kinh tế tuần hoàn biển. Công việc cụ thể cần thực hiện ngay trong thời gian tới bao gồm: thu hồi, tái chế rác thải nhựa từ hoạt động ngư nghiệp; tận dụng phụ phẩm, phế thải từ nuôi biển và chế biến thủy sản; xây dựng các mô hình cảng biển xanh, khu kinh tế biển trung hòa carbon; xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật liên quan.
Thứ ba, nâng cao năng lực điều tra cơ bản, giám sát, số hóa dữ liệu biển, coi đây là nền tảng để quy hoạch không gian biển quốc gia và quản lý tổng hợp vùng bờ. Chú ý tư duy chia sẻ dữ liệu trong hệ thống quản lý Nhà nước trung ương và địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã và ngư dân.
Thứ tư, chú trọng xây dựng cơ chế phối hợp vùng giữa các địa phương ven biển, nhằm đồng bộ hạ tầng, bảo vệ hành lang ven biển, ứng phó biến đổi khí hậu, kiểm soát nguồn thải và phát triển kinh tế biển bền vững.
Thứ năm, phát huy vai trò doanh nghiệp và cộng đồng đồng quản lý, nhất là các doanh nghiệp lớn trong các lĩnh vực dầu khí, hàng hải, nuôi biển công nghiệp, chế biến thủy sản, du lịch biển… để hình thành các chuỗi liên kết xanh và các mô hình kinh tế tuần hoàn biển quy mô lớn.

Cũng tại Hội thảo, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan đã chia sẻ về tư duy, quan điểm tiếp cận mới trong bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế biển. Theo đó, bảo vệ môi trường biển không chỉ là nhiệm vụ của ngành Tài nguyên và môi trường, mà là trách nhiệm chung, tạo dựng nền tảng cho phát triển kinh tế biển bền vững, gắn kết hài hòa môi trường, sinh kế và thịnh vượng cộng đồng. Biển chỉ cho lợi ích khi và chỉ khi người dân biết trân quý và nuôi dưỡng lại biển. Người dân cần cảm nhận triết lý: “Chúng ta không thừa hưởng Trái đất từ Tổ tiên, mà đang vay mượn của con cháu”.
Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, muốn thay đổi hành vi, người dân cần phải tạo động lực bằng cách tạo thu nhập tốt hơn, tạo rào cản bằng biện pháp phạt nặng hành vi hủy hoại biển, tạo niềm tự hào nghề cá có trách nhiệm, tạo hình mẫu ngư dân tiên phong.
Trong thiên nhiên, không có gì tồn tại một mình. Biển là không gian chung. Không ai bảo vệ biển một mình. Cần hình thành cộng đồng ngư dân, cộng đồng doanh nghiệp, cộng đồng khoa học, cộng đồng tiêu dùng cùng tôn trọng giá trị biển.
Biển được bảo vệ khi ngư dân thấy lợi ích khi tuân thủ, doanh nghiệp được lợi khi đầu tư công nghệ sạch, người tiêu dùng chọn sản phẩm truy xuất được nguồn gốc, chính quyền nhìn dài hạn, không “đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng”.
Với cam kết hành động mạnh mẽ, sự đồng hành của các bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp, nhà khoa học, cùng bà con ngư dân, cộng đồng cư dân ven biển, Việt Nam sẽ từng bước xây dựng được một nền kinh tế biển xanh, bền vững, hiện đại, đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Qua những ý kiến đóng góp, đề xuất tại Hội thảo, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan đề nghị Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường tổng hợp, chọn lọc để cập nhật vào báo cáo giám sát nói riêng, đồng thời, xem đây là nguồn tham khảo quan trọng trong công tác giám sát, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách liên quan đến kinh tế biển và bảo vệ môi trường nói chung./.