Xây dựng cơ chế EPR minh bạch, khả thi, từng bước thay đổi hành vi tiêu dùng

Chiều 24/12, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp nghe báo cáo, cho ý kiến về nội dung dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường về trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì và trách nhiệm xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu (Dự thảo Nghị định), đặc biệt là nội dung liên quan đến thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu (EPR).

epr-1-1766575985939668597209-1766620050.jpg
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp nghe báo cáo, cho ý kiến về nội dung dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường về trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì và trách nhiệm xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu. Ảnh VGP/Minh Khôi.

Phó Thủ tướng nêu rõ, quy định về tái chế, xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhập khẩu không thể hiểu đơn thuần là chôn lấp hay tiêu hủy như thông thường. Trọng tâm cốt lõi ở đây là kinh tế tuần hoàn, là tái chế để biến rác thải thành tài nguyên.

Đánh giá cao sự tham gia của các hiệp hội doanh nghiệp quốc tế và trong nước, Phó Thủ tướng khẳng định đây là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng doanh nghiệp. Do đó, quá trình xây dựng và hoàn thiện Nghị định cần sự tham vấn rộng rãi, đảm bảo sự đồng thuận, minh bạch và tính chuyên nghiệp trong quản lý nhà nước.

Bổ sung quy định hỗ trợ tài chính cho hoạt động tái chế, xử lý chất thải

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Dự thảo Nghị định được xây dựng theo nguyên tắc không làm thay đổi chính sách hiện hành; kế thừa và tích hợp các quy định đã có; quy định cụ thể một số trường hợp đặc thù phát sinh trong thực tiễn; bổ sung, hoàn thiện quy dịnh về cơ chế hỗ trợ tài chính từ nguồn đóng góp của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu để tái chế sản phẩm, bao bì, xử lý chất thải.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành cho biết, Dự thảo Nghị định quy định bổ sung các nội dung liên quan đến việc hỗ trợ hoạt động tái chế sản phẩm, bao bì, xử lý chất thải (gồm: đối tượng, hình thức hỗ trợ; nguyên tắc quản lý, cách thức phân bổ tiền hỗ trợ; các bước triển khai thực hiện hỗ trợ và việc giải ngân tiền hỗ trợ).

Trong đó, các gói hỗ trợ tái chế được xác định theo từng loại sản phẩm, bao bì, trên cơ sở năng lực và công suất tái chế thực tế của các cơ sở tái chế, nhằm huy động tối đa sự tham gia của doanh nghiệp tái chế vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân có năng lực phù hợp; qua đó thúc đẩy phát triển mạng lưới tái chế trong nước theo hướng đa dạng, cạnh tranh và minh bạch, góp phần phát triển khu vực kinh tế tư nhân.

epr-2-176657598597515785735-1766620097.jpg
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành báo cáo. Ảnh VGP/Minh Khôi.

Các nguồn kinh phí hỗ trợ xử lý chất thải được phân bổ cho các địa phương theo các tiêu chí định lượng, rõ ràng như quy mô dân số, diện tích khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn... UBND cấp tỉnh chủ động quyết định việc sử dụng kinh phí được phân bổ cho các hoạt động xử lý chất thải trên địa bàn và chịu trách nhiệm toàn diện về việc sử dụng kinh phí theo quy định của pháp luật.

Dự thảo Nghị định cũng quy định cụ thể các nội dung liên quan đến quản lý, giám sát thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu (EPR) gồm: Hệ thống thông tin EPR quốc gia; quy định việc tổ chức quản lý, giám sát, hỗ trợ việc thực hiện trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường quy định cụ thể theo thẩm quyền đối với quy chế tổ chức hoạt động của Hội đồng EPR và đơn vị giúp việc Hội đồng EPR.

Làm rõ khái niệm, minh bạch cơ chế, gắn với năng lực tái chế

Đại diện Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), Liên minh Tái chế Bao bì Việt Nam (PRO Vietnam), Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam (VBA)… kiến nghị làm rõ các định nghĩa về thu gom, công nhận sản phẩm sau tái chế và minh bạch hóa cơ chế quản lý, sử dụng quỹ EPR. Đặc biệt, cần quy định nguyên tắc tính phí FS (đóng góp tái chế) rõ ràng, tránh tăng đồng thời tỷ lệ tái chế bắt buộc và phí FS trong cùng một năm; sớm có chính sách hỗ trợ hình thành hạ tầng tái chế trong nước để doanh nghiệp thực thi hiệu quả; mở rộng ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất có sáng kiến giảm thiểu rác thải (giảm trọng lượng chai, dùng nhựa tái chế...).

TS. Phùng Chí Sỹ, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam nhấn mạnh, cần làm rõ định nghĩa "tái chế", phân định rạch ròi giữa "chất thải" và "phế liệu" để tránh vướng mắc pháp lý, đồng thời khơi thông cơ chế chi từ quỹ EPR hỗ trợ doanh nghiệp.

epr-4-17665759860131001688718-1766619992.jpg
Đại diện Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam phát biểu. Ảnh VGP/Minh Khôi.

Liên quan đến quy định "phương tiện giao thông thải bỏ chưa phá dỡ thì chưa coi là chất thải", Phó Chủ tịch UBND TP. Hải Phòng Lê Anh Quân đề nghị cần xem xét lại kỹ lưỡng, vì tiềm ẩn rủi ro lớn về môi trường do rò rỉ các chất thải nguy hại như dầu nhớt, axit. TP. Hải Phòng kiến nghị bổ sung cơ chế phân bổ nguồn lực xuống tận UBND cấp xã để đảm bảo kinh phí cho cấp cơ sở thực hiện nhiệm vụ thu gom, xử lý.

Các địa phương cũng đề xuất Bộ Nông nghiệp và Môi trường chia sẻ dữ liệu từ Hệ thống thông tin EPR quốc gia; đẩy mạnh chuyển đổi số toàn trình quy trình EPR nhằm đảm bảo tính minh bạch, khách quan trong quản lý.

Đồng tình với ý kiến này, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi đề nghị quy định rõ danh mục thông tin chia sẻ giữa cơ quan Thuế, Hải quan và ngành môi trường ngay trong Nghị định để đảm bảo tính khả thi. Đại diện Bộ Tư pháp, Bộ Công Thương kiến nghị loại bỏ quy định về Hội đồng EPR và trách nhiệm của chủ phương tiện giao thông ra khỏi phạm vi điều chỉnh do chưa phù hợp cơ sở pháp lý. Đại diện Bộ Công an cảnh báo nguy cơ "hợp thức hóa" hàng nhập lậu thông qua quy định cho phép sử dụng bao bì thải bỏ của nhà sản xuất khác để tái chế.

Xây dựng cơ chế EPR minh bạch, khả thi, từng bước thay đổi hành vi tiêu dùng

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp thu đầy đủ các ý kiến đóng góp, hoàn thiện Dự thảo Nghị định.

Phó Thủ tướng khẳng định tinh thần xuyên suốt trong hoàn thiện Dự thảo Nghị định là không cầu toàn về hình thức, nhưng chính sách ban hành phải triển khai được ngay và vận hành thực chất. Theo đó, không thể tiếp cận vấn đề theo cách làm hành chính, tư duy "ngồi trong phòng máy lạnh", mà phải xuất phát từ thực tiễn, thiết kế cơ chế vận hành cụ thể, trả lời rõ câu hỏi chính sách có thể thực thi ngay hay không.

cosoxulychatthai-1766619898.jpg
Nhà máy xử lý chất thải công nghiệp công nghệ ưu việt nhất hiện nay tại miền Bắc. Ảnh tcgvn.com.

Phó Thủ tướng nhấn mạnh, chỉ khi xác định rõ đối tượng, phạm vi và xây dựng được chính sách cụ thể, khả thi thì việc triển khai mới thực sự thể hiện được tính chất "cá biệt, đặc biệt" của nhóm chính sách về EPR. Đó là, bên cạnh các chính sách hiện hành, nhóm chính sách về EPR không hoàn toàn mang tính bắt buộc mà mang tính đóng góp, hỗ trợ thêm cho hoạt động xử lý chất thải không phải là kinh phí bao trùm toàn bộ chi phí bắt buộc cho tái chế, tiêu hủy.

Cụ thể, Luật Bảo vệ môi trường và khung chính sách môi trường hiện hành đã bao quát đầy đủ các loại chất thải như chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải nhựa, chất thải nguy hại với các chính sách chung. Còn Dự thảo Nghị định quy định danh mục các đối tượng áp dụng EPR và sẽ được mở rộng theo thời gian, tập trung vào những loại hình chất thải trên thực tế rất khó thực hiện, có tính chất phức tạp, ảnh hưởng lớn đến môi trường, nguy hại và đặc biệt khó khăn trong khâu thu gom.

Theo Phó Thủ tướng, mục tiêu của việc triển khai EPR là hướng các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu và người tiêu dùng tới việc tiếp cận các sản phẩm thân thiện hơn với môi trường, thông qua sự tham gia trực tiếp của nhà sản xuất và nhà nhập khẩu. Về dài hạn, chính sách nhằm từng bước thay đổi nhận thức, tư duy, thúc đẩy cải tiến để loại bỏ dần các sản phẩm không thân thiện, tiến tới thu hẹp và giảm dần danh mục các sản phẩm thuộc diện phải áp dụng EPR.

Mục tiêu cuối cùng là xây dựng một cơ chế EPR khả thi, minh bạch, từng bước thay đổi hành vi của doanh nghiệp và người tiêu dùng, qua đó bảo vệ môi trường một cách thực chất.

PV/chinhphu.vn