Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương đã dành nhiều thời gian thảo luận một cách dân chủ và đã thống nhất cao ban hành Nghị quyết mới về "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao" (Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương).
Liên quan tới quá khứ, hiện tại và tương lai
Thủ tướng cho rằng, đây là chủ đề khó, phức tạp, nhạy cảm, liên quan tới quá khứ, hiện tại, tương lai, liên quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, tôn giáo, dân tộc, các vấn đề an ninh phi truyền thống, các vấn đề đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số…, được quốc tế quan tâm.
Trong quá trình xây dựng Nghị quyết, các cơ quan liên quan đã đặt hàng 12 cơ sở nghiên cứu trong nước, 3 tổ chức quốc tế, tổ chức 9 tọa đàm, 12 hội thảo, 3 hội nghị ở 3 miền Bắc, Trung Nam, lấy ý kiến lãnh đạo cấp ủy, chính quyền các cấp, nhiều cuộc làm việc với các đảng đoàn, ban cán sự đảng. Việc thảo luận tại Trung ương về dự thảo Nghị quyết rất sôi nổi với 209 thảo luận tại tổ, 15 ý kiến tại hội trường.
Trong trình bày, Thủ tướng Phạm Minh Chính tập trung phân tích 5 nội dung, nhấn mạnh những điểm mới của Nghị quyết so với trước đây.
Thứ nhất, các yếu tố nền tảng làm cơ sở xây dựng, hoàn thiện thể chế về đất đai.
Thứ hai, tính cấp thiết phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất.
Thứ ba, một số quan điểm, mục tiêu.
Thứ tư, một số nhiệm vụ, giải pháp.
Thứ năm, công tác tổ chức thực hiện.
Những yếu tố nền tảng làm cơ sở xây dựng, hoàn thiện thể chế về đất đai
Về các yếu tố nền tảng làm cơ sở xây dựng, hoàn thiện thể chế về đất đai, Thủ tướng nêu rõ, trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), các chủ trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng, chúng ta đã và đang phấn đấu xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở các nền tảng: (i) Nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; (ii) Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (iii) Nền dân chủ XHCN, phát huy ý chí và sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại.
Để xây dựng được các nền tảng này, chúng ta phải lấy con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, động lực, nguồn lực cho sự phát triển; phát huy tối đa yếu tố con người Việt Nam về trí tuệ, tài năng, phẩm chất, đạo đức và các năng lực khác; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, an sinh xã hội, môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
Chúng ta cũng đang xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động, đủ sức chống chịu với những biến động bên ngoài và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, chủ động, thực chất, hiệu quả. Lấy nội lực là cơ bản, quyết định lâu dài, ngoại lực là quan trọng, đột phá.
Chúng ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế theo 3 trụ cột chính: Xóa quan liêu bao cấp, phát triển kinh tế đa thành phần và hội nhập quốc tế. Đồng thời, tập trung thực hiện 3 đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó lường về cả kinh tế, chính trị, xã hội; các vấn đề an ninh truyền thống, phi truyền thống, như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, trong đó có cả những thách thức đối với nguồn lực đất đai đã tác động, ảnh hưởng đến xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai ở nước ta.
Thêm vào đó, xu thế phát triển của thế giới, nhất là tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra yêu cầu thay đổi căn bản từ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để phát triển nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao, tư duy mới về an ninh lương thực; thay đổi cơ cấu ngành, nghề theo hướng công nghiệp hiện đại, nông nghiệp sinh thái, phát triển đô thị thông minh, cho đến công tác quản lý Nhà nước về đất đai, tạo ra không gian sinh tồn ổn định, bền vững của đất nước.
Trong bối cảnh đó và từ thực tiễn quá trình quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta cùng với những yếu tố nền tảng nêu trên, đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong công tác quản lý và sử dụng đất đai, bảo đảm hài hoà các lợi ích của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh, sử dụng hiệu quả đất đai, tạo nguồn lực và động lực mới để phấn đấu đến năm 2030 nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Yêu cầu cấp thiết phải giải phóng, phát huy nguồn lực đất đai
Thủ tướng nêu rõ: Tính cấp thiết phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất xuất phát từ 3 lý do chủ yếu: Yêu cầu cấp thiết phải giải phóng, phát huy nguồn lực đất đai để tạo động lực cho phát triển; căn cứ chính trị; căn cứ thực tiễn.
Về yêu cầu cấp thiết phải giải phóng, phát huy nguồn lực đất đai để tạo động lực cho phát triển, Thủ tướng nhấn mạnh, đất đai là vấn đề hệ trọng, hết sức phức tạp, nhạy cảm, đặc biệt quan trọng, hệ trọng đối với sự ổn định và phát triển bền vững đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhắc lại câu nói: "Lao động là cha, đất đai là mẹ của của cải vật chất". Giải quyết tốt chính sách đất đai sẽ thúc đẩy giải phóng sức lao động, các nguồn lực cho phát triển đất nước.
Nhìn lại lịch sử cách mạng Việt Nam và thực tiễn hơn 35 năm đổi mới, các chủ trương mới của Đảng ta về đất đai về cơ bản là đúng đắn, phù hợp hoàn cảnh từng thời kỳ, từng giai đoạn, mang lại những thành tựu lớn cho phát triển đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân.
“Thực tiễn cho thấy, nếu các chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai được đầu tư nghiên cứu kỹ, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, đi vào thực tiễn thì mang lại hiệu quả lớn rất lớn và ngược lại. Mặc dù vậy, các chủ trương, chính sách dù hoàn thiện tới đâu cũng không thể bao phủ hết được hết các góc cạnh của cuộc sống, mặt khác, quá trình phát triển nói chung và việc quản lý, sử dụng đất nói riêng còn chịu tác động từ nhiều yếu tố và luôn thay đổi. Do đó, chúng ta bám sát thực tiễn, vừa làm vừa đúc rút, tổng kết kinh nghiệm, mở rộng, hoàn thiện dần, không cầu toàn, không nóng vội”, Thủ tướng nói.
Người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh, đất đai là một hằng số nhưng người càng ngày càng đông hơn, do đó bài toán đặt ra là quản lý, sử dụng cho hợp lý, hiệu quả nhất. Thủ tướng cho biết đi công tác tại các địa phương, ông đã nhiều lấn nhấn mạnh rằng những vị trí đất đai đẹp nhất phải ưu tiên dành cho sản xuất, kinh doanh, tạo công ăn việc làm, từ đó mới có người đến làm, có người đến làm thì mới có người đến ở, có người đến ở thì mới có người mua nhà, như thế thì phát triển bất động sản mới bền vững.
Về căn cứ chính trị, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII và các Nghị quyết gần đây đều đặt ra các yêu cầu: Hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính.
10 mối quan hệ lớn cần nắm vững và xử lý tốt; yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa; yêu cầu lấy người dân làm trung tâm, tất cả vì lợi ích của người dân, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra và dân thụ hưởng, được đưa ra trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đều là những cơ sở quan trọng để xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách về đất đai.
Thủ tướng nhấn mạnh, chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai là đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển bền vững đất nước; thực tiễn, việc hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai đều được xây dựng trên cơ sở định hướng chính trị của Đảng.
Về căn cứ thực tiễn, đánh giá toàn diện kết quả sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khoá XI về “tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, Nghị quyết số 18-NQ/TW đánh giá chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu, việc quản lý và sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, Nghị quyết cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém còn rất lớn, những nguyên nhân chủ yếu.
Thủ tướng nhấn mạnh: Xuất phát từ yêu cầu và thực tiễn, việc tổng kết thực hiện Nghị quyết 19 về đất đai và ban hành Nghị quyết mới là một yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách (trọng tâm là sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 và các luật khác có liên quan, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất), kịp thời cho đúng, sát hợp với thực tế và đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới, bảo đảm hài hoà các lợi ích của Nhà nước, người dân và nhà đầu tư, tạo nguồn lực và động lực mới để phấn đấu đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Nhiều điểm mới trong các quan điểm chỉ đạo
Nghị quyết khẳng định quan điểm xuyên suốt của Đảng về đất đai: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Điểm mới của Nghị quyết lần này là làm rõ hơn về vai trò của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu và nội hàm, ý nghĩa của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; đồng thời, đặt ra yêu cầu mới phải công khai, minh bạch và trách nhiệm phải giải trình trong thu hồi đất.
Đồng thời Nghị quyết nhấn mạnh quan điểm: Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo lãnh thổ quốc gia, cả về diện tích, chất lượng, giá trị kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường; phân công hợp lý giữa các cơ quan Nhà nước ở Trung ương, đồng thời có sự phân cấp, phân quyền phù hợp, hiệu quả đối với địa phương và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát, xử lý vi phạm. Đây là nội dung có nhiều điểm mới, bổ sung, làm rõ việc quản lý về đất đai bao gồm cả diện tích và chất lượng; đồng thời, phân cấp rõ hơn giữa các cấp.
Thứ hai, Nghị quyết cũng kế thừa quan điểm của Nghị quyết 19, trong đó tiếp tục khẳng định quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt nhưng không phải là quyền sở hữu và bổ sung thêm: Bên cạnh quyền sử dụng đất thì tài sản gắn liền với đất được pháp luật bảo hộ. Điều này phù hợp với Luật Dân sự năm 2015 và đây là cơ sở để hoàn thiện các chế định về thúc đẩy thị trường quyền sử dụng đất và là nguyên tắc để giải quyết các vấn đề đất đai do lịch sử để lại.
Quan điểm thứ ba, Nghị quyết nêu rõ: Thể chế, chính sách về đất đai phải được hoàn thiện đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung này của Nghị quyết là quan điểm mới, có tính khái quát cao, là định hướng lớn cho công tác hoàn thiện thể chế, chính sách về đất đai, trong đó trọng tâm là sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 và các luật khác có liên quan, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất; khơi dậy và phát huy tối đa tiềm năng, giá trị nguồn lực đất đai, đồng thời đặt ra quyết tâm lớn của toàn hệ thống chính trị là khắc phục cho được tình trạng tham nhũng, tiêu cực, khiếu kiện, đầu cơ và sử dụng đất đai lãng phí.
Thứ tư, Nghị quyết nhấn mạnh quan điểm đối với công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
Nội dung này của Nghị quyết có nhiều điểm mới, đặt ra những yêu cầu về kiện toàn tổ chức bộ máy; nâng cao vai trò của cơ quan tư pháp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai; quy hoạch sử dụng đất phải có tầm nhìn dài hạn, bảo đảm phát triển bền vững, hài hòa lợi ích giữa các thế hệ, vùng miền, giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an ninh lương thực. Đây là một định hướng lớn, với yêu cầu cao đối với công tác quy hoạch, sử dụng đất (yêu cầu mang tính đa chiều về cả không gian và thời gian).
Quan điểm thứ năm, Nghị quyết khẳng định: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai.
Nội dung này của Nghị quyết kế thừa quan điểm của Nghị quyết 19 và bổ sung, làm rõ sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân, không chỉ ở việc tổ chức thực hiện, mà ngay từ khâu xây dựng chính sách, phát luật về đất đai và giám sát quá trình thực hiện. Đây là điểm mới trên cơ sở quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về dân chủ XHCN, khẳng định vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Căn cứ vào các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 đã được đưa ra tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng; bám sát các quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết đã xác định 3 mục tiêu tổng quát và 6 mục tiêu cụ thể.
Thủ tướng nêu rõ, đây là những mục tiêu hết sức quan trọng, có ý nghĩa lớn, đòi hỏi sự tham gia của cả hệ thống chính trị và nhân dân. Để hoàn thành các mục tiêu nêu trên, yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao phải tập trung thực hiện quyết liệt, hiệu quả với quyết tâm cao, nỗ lực lớn ngay từ bây giờ, đặc biệt phải tập trung sửa đổi Luật Đai năm 2013 và trình Quốc hội khóa XV ngay vào kỳ họp lần thứ 4 sắp tới.
Để thực hiện các mục tiêu đã đề ra, Nghị quyết số 18-NQ/TW đưa ra 6 nhóm nhiệm vụ giải pháp lớn với những nội dung chính như sau.
Thứ nhất, nhóm nhiệm vụ, giải pháp về thống nhất nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đây là nội dung mới để khắc phục những hạn chế mà quá trình tổng kết Nghị quyết số 19-NQ/TW đã nêu ra (cách hiểu và triển khai, thực hiện của các cơ quan, đơn vị, địa phương còn khác nhau), quán triệt thống nhất trong nhận thức và hành động của toàn hệ thống chính trị và toàn dân về công tác quản lý, sử dụng đất đai (nhận thức cho thật đúng, đầy đủ).
Thứ hai, nhóm nhiệm vụ, giải pháp về hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý và sử dụng đất đồng bộ với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trung ương đã phân tích, đánh giá và thống nhất cao về các giải pháp, chủ trương, định hướng tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai, trọng tâm là “sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, đáp ứng yêu cầu phát triển mới” với 8 nội dung sau.
Trong đó, Thủ tướng chỉ rõ nhiều điểm mới như yêu cầu nội dung quy hoạch sử dụng đất phải kết hợp giữa chỉ tiêu các loại đất gắn với không gian (trên không và dưới ngầm), phân vùng sử dụng đất, hệ sinh thái tự nhiên (phân theo khu vực cần bảo vệ nghiêm ngặt, khu vực cần giữ ổn định, khu vực phát triển), thể hiện được thông tin đến từng thửa đất.
Một điểm mới khác là cho cơ chế góp quyền sử dụng đất đối với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, điều chỉnh lại đất đai đối với các dự án phát triển, chỉnh trang đô thị và khu dân cư nông thôn (trước đây, đối với các dự án phát triển, chỉnh trang đô thị và khu dân cư nông thôn thì Nhà nước đứng ra thu hồi và chưa có quy định về điều chỉnh lại đất đai đối với các loại dự án này). Đồng thời, đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, sẽ xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách để tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất tham gia với nhà đầu tư để thực hiện các dự án dưới hình thức chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Để giải quyết tình trạng chậm triển khai dự án do chậm bàn giao mặt bằng, Nghị quyết đặt ra yêu cầu tiếp tục thực hiện thí điểm và sớm tổng kết chủ trương tách dự án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ra khỏi dự án đầu tư để thực hiện trước.
Nghị quyết yêu cầu có chế tài cụ thể và đồng bộ để xử lý các trường hợp đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng không sử dụng hoặc chậm sử dụng. Kiên quyết thu hồi đất của tổ chức, cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp sử dụng đất không đúng mục đích, nhất là tại các vị trí có lợi thế, khả năng sinh lợi cao, ngăn chặn thất thoát vốn, tài sản Nhà nước.
Nghị quyết cũng bỏ khung giá đất, đồng thời yêu cầu có cơ chế, phương pháp xác định giá đất theo nguyên tắc thị trường, quy định chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của cơ quan có nhiệm vụ xác định giá đất. Trung ương xây dựng tiêu chí và quy trình kiểm tra, giám sát các địa phương trong việc xây dựng bảng giá đất. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, kiểm tra, giám sát việc thực hiện giá đất.
Nghị quyết yêu cầu hoàn thiện các quy định bảo đảm công khai, minh bạch như: Công khai giá đất, bắt buộc giao dịch qua các sàn giao dịch, thanh toán qua ngân hàng, không dùng tiền mặt; xử lý nghiêm các vi phạm.
Nghị quyết đưa ra chủ trương quy định mức thuế cao hơn đối với người sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm sử dụng đất, bỏ đất hoang và có cơ chế điều tiết hợp lý, hiệu quả nguồn thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất giữa Trung ương và địa phương (nghiên cứu có chính sách điều tiết chênh lệch địa tô, bảo đảm công khai, minh bạch).
Thủ tướng cũng nhấn mạnh, việc hoàn thiện quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất là nội dung hết sức quan trọng, tác động trực tiếp đến người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.
”Chúng ta đều biết, khiếu kiện liên quan đến đất đai trong giai đoạn 2014-2020 thường chiếm từ 60-70% số lượng vụ việc hành chính; trong đó 60-70% là liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; việc chậm giải phóng mặt bằng khiến nhiều dự án lớn chậm tiến độ, đội vốn... Đây là vấn đề rất lớn đặt ra cần giải quyết trong đổi mới chính sách pháp luật đất đai”, Thủ tướng nói.
Thứ ba, nhóm nhiệm vụ giải pháp về đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về đất đai.
Thứ tư, nhóm nhiệm vụ, giải pháp về đổi mới, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Theo Thủ tướng, đây là nhiệm vụ then chốt để khắc phục những bất cập trong quản lý, sử dụng đất đai trong giai đoạn vừa qua, nhất là trong công tác tổ chức thi hành chính sách, pháp luật về đất đai.
Thứ năm, nhóm nhiệm vụ, giải pháp về tập trung giải quyết cơ bản những hạn chế, khuyết điểm, vướng mắc kéo dài liên quan đến quản lý và sử dụng đất.
Thứ sáu, nhóm nhiệm vụ, giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý và sử dụng đất.
Về tổ chức thực hiện, Bộ Chính trị sẽ ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết; lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, kịp thời, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của cả hệ thống chính trị. Đây là điểm mới trong tổ chức thực hiện và điều này còn cho thấy tầm quan trọng của Nghị quyết cũng như của chính sách, pháp luật về đất đai đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Các cơ quan trong cả hệ thống chính trị căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải chủ động tổ chức thực hiện Nghị quyết. Trong đó, Ban cán sự đảng Chính phủ tổ chức triển khai các chương trình, kế hoạch, đề án thực hiện Nghị quyết đồng bộ, hiệu quả; chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 trình kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XV vào tháng 10/2022.