“ Thảo Am An Dưỡng” nơi yên nghỉ của thái giám triều Nguyễn

Võ Việt
Lường trước được số phận cô quạnh của mình lúc xế chiều nên một số thái giám đã nhiều lần quyên tiền tu bổ, kiến thiết lại chùa nhằm có chỗ náu thân khi về già buộc phải rời cung cấm.
to-dinh-31-result-1721098178.jpg
Nhiều du khách đến thăm Huế, thăm đất thần kinh, lăng tẩm nhưng không nhiều người biết đến cung sử của những thái giám vốn là lớp người góp phần quan trọng trong việc cai quản dưới thời các triều đại. Những gì còn lại đối với những thái giám chỉ là chút ngậm ngùi, thương xót cho những kiếp người sống cô độc, chết trong hoang lạnh
to-dinh-3-result-1721098178.jpg
Tổ đình Từ Hiếu từ lâu đã trở thành một biểu tượng của lòng hiếu thảo trong lòng người dân Việt với tên gọi nguyên sơ Am An Dưỡng do hòa thượng Tánh Thiên - Nhất Định lập nên vào năm 1843
to-dinh-27-result-1721098179.jpg
Theo ghi chép, vào 1893 - đời Vua Thành Thái thứ năm, chùa Từ Hiếu được hoà thượng Cương Kỷ cho trùng tu lớn. Nhiều thái giám tổ chức quyên tiền đóng góp, đồng thời gửi gắm nguyện vọng sau khi chết sẽ được chôn cất tại đây để nương nhờ cửa Phật. Và họ đã được thoả nguyện
to-dinh-2-result-1721098178.jpg
Một số thái giám triều Nguyễn có đóng góp tiền để xây cất và trùng tu chùa sau khi chết được chôn tại một nghĩa trang nằm bên phải chùa. Từ đó, chùa Từ Hiếu còn có tên gọi khác là chùa Thái giám
to-dinh-17-result-1721098179.jpg
Nghĩa trang thái giám là một khu mộ hình chữ nhật với diện tích gần 1.000m2, có chiều dài 26,03m và rộng 19,05m, được bao quanh bởi bốn bức tường dày 0,79m; cao 1,78m, ở giữa có tấm bia khắc ghi công lao đóng góp của các thái giám
to-dinh-18-result-1721098179.jpg
Các ngôi mộ có 3 dãy, hàng thứ nhất mộ to, hàng thứ ba mộ nhỏ hơn hàng thứ hai, các dãy mộ có kích thước và chiều cao khác nhau bởi được sắp xếp theo chức vụ của quan thái giám xưa
to-dinh-22-result-1721098178.jpg
Số mộ đếm được là 25 ngôi, có 2 ngôi mộ gió (không có thi hài bên trong). Trong đó, 21 ngôi còn nguyên vẹn, có bia khắc tên tuổi, quê quán, pháp danh, chức vụ và ngày mất. Rõ ràng nhất là bia số 22 (ở dãy trong cùng) có khắc: Hoàng triều Cung giám viện, quảng vụ Nguyễn Hầu, người ở thôn Nhi, xã Hoàng Công, tổng Hoàng Công, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội; mất ngày 15 tháng giêng năm Khải Định thứ V (1920). Nhiều bia mộ khác vẫn còn đọc rõ chữ
to-dinh-11-result-1721098174.jpg
Đặc biệt, tại nghĩa trang có một tấm bia ký sắc nằm ở phía mặt tiền. Bia chỉ cao quá 1m, rộng hơn 0,5m nhưng nội dung khiến người đọc không khỏi xót xa: “Nhân nghĩ rằng nếu không lo kể về sau, khi còn sống thì nương nhờ chốn Phật, mà khi chúng ta chết thì biết nương tựa vào đâu? Nhận thấy ở góc thành phía tây nam có một đám đất, lấy gạch xây thành để về sau làm nơi chôn mộ. Ở đó làm một cái am lợp ngói để hằng năm thờ cúng, gần nơi cửa Phật mới là nơi thừa tự lâu dài và ngày thường cùng bằng hữu nếu ai ốm đau có chỗ ra vào dưỡng bệnh, khi nằm xuống có chỗ tống táng”
to-dinh-32-result-1721098179.jpg
Cổng chính giữa có đặt một tấm bia đá được dựng từ năm 1901 do Cao Xuân Dục soạn, ghi lại những tâm sự của thái giám triều Nguyễn: “Trong khi sống, chúng tôi tìm thấy ở đây sự yên lặng, khi đau ốm chúng tôi đến lánh mình và sau khi chết được an táng cùng nhau. Sống hay chết, ở đây chúng tôi đều được yên tĩnh”
to-dinh-20-result-1721098178.jpg
Một thời vàng son đã khép lại, mỗi khi nhắc đến Huế, nhiều người vẫn còn nhớ khá rõ những giai thoại về các vị vua chúa, quan lại triều Nguyễn. Thế nhưng, nhắc đến thân phận thái giám lại rất ít ai để ý đến
to-dinh-4-result-1721098178.jpg
Theo tục lệ, hằng năm cứ đến rằm tháng 11 âm lịch, chùa Từ Hiếu lại tổ chức ngày giỗ chung để tưởng nhớ những người đã mất, trong đó có thái giám triều Nguyễn. Còn những ngày bình thường, khu mộ địa chìm trong lặng lẽ, vắng bóng người qua lại. Mặc dù nằm trong khuôn viên chùa Từ Hiếu, nhưng khách thập phương đa số quan tâm đến cúng bái, hành hương, ít ai để ý đến những ngôi mộ này. Nếu không có các sư chùa, phật tử quét dọn và hương khói thì chắc có lẽ nơi an nghỉ của các vị cũng đã hoá rêu phong theo dòng chảy của thời gian

Võ Việt