Tám mươi năm đã trôi qua, song hào khí mùa thu lịch sử ấy vẫn ngân vang, vẫn như còn vọng lại trong từng nhịp thở của non sông, trong từng bước đi của dân tộc trên con đường xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng. Nhắc đến Cách mạng Tháng Tám là nhắc đến bản anh hùng ca bất diệt của ý chí độc lập, tự do; là nhắc đến sức mạnh vô song của khối đại đoàn kết toàn dân; là nhắc đến một dân tộc từ thân phận nô lệ vươn mình thành chủ nhân của đất nước, tự hào cất cao tiếng nói khẳng định quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc như trong bản “Tuyên ngôn bất hủ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhìn lại những năm tháng trước 1945, nước ta chìm trong đêm trường nô lệ. Thực dân Pháp hơn 80 năm đô hộ, nhân dân phải chịu cảnh áp bức, bóc lột đến tận cùng. Đến năm 1940, phát xít Nhật kéo vào Đông Dương, nhân dân ta lại rơi vào cảnh “một cổ hai tròng”. Nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu đồng bào, để lại những hình ảnh tang thương mà nhà văn Tô Hoài, nhà báo Nguyễn Đình Thi hay các phóng viên phương Tây đương thời đều mô tả với những câu chữ ám ảnh.
Giữa lúc dân tộc bị dồn đến bờ vực của sự sống, ánh sáng của Đảng Cộng sản Đông Dương, của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã trở thành ngọn đuốc dẫn đường, hun đúc niềm tin và ý chí đứng lên giành lại độc lập. Chính trong hoàn cảnh ấy, Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) tại Pác Bó, Cao Bằng đã xác định con đường giải phóng dân tộc và đặt nhiệm vụ độc lập dân tộc lên hàng đầu, thành lập Mặt trận Việt Minh, đoàn kết toàn dân. Đây chính là bước ngoặt chiến lược, chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Tháng 8/1945, khi thời cơ chín muồi, toàn dân tộc vùng lên như nước vỡ bờ. Chỉ trong vòng 15 ngày, từ ngày 14 đến 28/8, chính quyền về tay nhân dân trên phạm vi cả nước. Những cuộc mít tinh hàng vạn người ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn; những đoàn nông dân tay gậy, tay dao; những đội tự vệ, du kích, thanh niên, phụ nữ… đã trở thành hình ảnh bất tử trong sử sách. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là một kỳ tích. Từ một dân tộc thuộc địa nhỏ yếu đã tự mình đứng lên đánh đổ ách thống trị của cả thực dân lẫn phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào và sự chứng kiến của bạn bè quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập. Những lời mở đầu trích từ Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 của Pháp, rồi Người khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” .
Lời tuyên bố ấy không chỉ khai sinh ra một nhà nước mới, mà còn là lời thề thiêng liêng của cả dân tộc, là tuyên ngôn với nhân loại về khát vọng tự do của Việt Nam. Các học giả quốc tế đã nhận định rằng, bản Tuyên ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa tinh hoa nhân loại mà còn mở ra một chuẩn mực mới cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Từ mùa thu lịch sử ấy, đất nước bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhưng con đường đi không hề bằng phẳng. Ngay sau khi Tuyên ngôn độc lập vang lên, thù trong giặc ngoài bủa vây: Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Chính quyền non trẻ phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, đẩy dân tộc ta vào cuộc kháng chiến trường kỳ.
Thế nhưng, từ nền tảng của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã kiên cường vượt qua. Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946 như một tiếng sấm, khơi dậy tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” .
Chính tinh thần ấy đã đưa dân tộc đi qua chín năm kháng chiến chống Pháp với Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu (1954), rồi tiếp tục 21 năm kháng chiến chống Mỹ với Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Có thể nói, nếu không có Cách mạng Tháng Tám thì sẽ không có Điện Biên Phủ, không có 30/4/1975, và càng không có một Việt Nam độc lập, thống nhất, phát triển như hôm nay.
Tám mươi năm trôi qua, bài học lớn nhất mà Cách mạng Tháng Tám để lại chính là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là sự kết hợp giữa thời cơ khách quan và nhân tố chủ quan; là bản lĩnh nắm bắt tình hình và sự chuẩn bị chu đáo; là niềm tin sắt son của nhân dân đối với Đảng, với lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh “Những thành quả mà chúng ta có được hôm nay đều bắt nguồn từ Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 lịch sử”. Chính vì vậy, kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 không chỉ là dịp ôn lại truyền thống, mà còn là lời nhắc nhở thế hệ hôm nay về trách nhiệm gìn giữ độc lập, phát huy thành quả, xây dựng một đất nước Việt Nam hùng cường.
Trong những năm đổi mới và hội nhập, tinh thần mùa thu cách mạng vẫn còn nguyên giá trị. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, kinh tế kiệt quệ, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ. Đến nay, Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển năng động nhất khu vực, có quan hệ ngoại giao với hơn 190 quốc gia, là thành viên tích cực của Liên hợp quốc, ASEAN, WTO và nhiều tổ chức quốc tế. Thành công trong kiểm soát dịch bệnh, trong phát triển hạ tầng, trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong chuyển đổi số và xanh hóa nền kinh tế… là những minh chứng sinh động cho sức sống bền bỉ của dân tộc, cho giá trị bất diệt của Cách mạng Tháng Tám.
Mỗi mùa thu, khi quốc kỳ tung bay trên Quảng trường Ba Đình, khi bản Quốc ca vang lên hào hùng, chúng ta lại tưởng nhớ đến những thế hệ đã hy sinh xương máu để giành và giữ độc lập. Hơn 1,2 triệu liệt sĩ đã ngã xuống, hàng triệu thương binh, bệnh binh, những bà mẹ Việt Nam anh hùng, những lớp lớp nhân dân đóng góp sức người, sức của… đã tạo nên nền độc lập hôm nay. Chính sự hy sinh ấy là cội nguồn của sức mạnh dân tộc, là nền tảng để chúng ta tự tin bước vào tương lai.
Hướng tới kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta càng thêm quyết tâm hiện thực hóa khát vọng xây dựng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045 đúng tròn 100 năm Tuyên ngôn Độc lập. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” . Câu nói ấy là sự tiếp nối niềm tin từ mùa thu 1945, là lời nhắn gửi đến thế hệ hôm nay và mai sau: Hãy giữ lấy ngọn lửa cách mạng, hãy biến tinh thần độc lập, tự cường thành động lực phát triển, để Việt Nam không chỉ là một quốc gia độc lập mà còn là một quốc gia hùng mạnh, sánh vai với cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong muốn.
Tám mươi năm một chặng đường dài của lịch sử dân tộc, đủ để chứng minh rằng Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 là bước ngoặt vĩ đại, là mốc son không bao giờ phai mờ. Đó là niềm tự hào, là di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam. Mỗi người con đất Việt hôm nay, khi nhắc đến mùa thu độc lập, đều thấy lòng mình trào dâng niềm kiêu hãnh, cũng như tự nhủ phải sống xứng đáng, phải góp sức xây dựng đất nước.
Bởi độc lập không chỉ là thành quả của cha ông, mà còn là trách nhiệm giữ gìn của thế hệ mai sau. Mùa thu 1945 đã mở ra một trang sử vàng. Mùa thu hôm nay và mai sau tiếp tục được viết nên bằng trí tuệ, công sức và lòng yêu nước của hàng triệu người dân Việt Nam. Và bản hùng ca bất diệt của dân tộc sẽ mãi vang vọng, dẫn lối chúng ta tiến về phía trước tiến tới một Việt Nam hòa bình, thịnh vượng, dân chủ, văn minh, sánh vai cùng bạn bè quốc tế, đúng như khát vọng của Bác Hồ kính yêu trong Tuyên ngôn Độc lập 2/9 năm nào.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 03.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 534.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021.