Hành trình của những người lính 918 bắt đầu ngay sau ngày giải phóng miền Nam, giữa bộn bề hậu chiến. Hàng loạt máy bay của chế độ cũ như C-130, C-119, C-47 cần được tiếp quản, chuyển loại để phục vụ quốc phòng. “Ban đầu khá khó khăn, chúng tôi phải nhờ chính những người lính của chế độ cũ còn ở lại để dạy”, Đại tá Vương Văn Cao, nguyên Phó Trung đoàn trưởng Trung đoàn 918, hồi tưởng.
Cứ thế, những chiếc máy bay đầu tiên tiếp quản từ địch được đưa vào khai thác, thực hiện nhiệm vụ vận chuyển quân sự Bắc - Nam, đưa hàng nghìn lượt bộ đội đi làm nhiệm vụ an toàn.
Từ giữa năm 1979, quá trình hiện đại hóa Không quân Nhân dân Việt Nam diễn ra nhanh chóng. Máy bay chiến lợi phẩm hết niên hạn, không có vật tư thay thế, dần loại khỏi biên chế. Cùng lúc, chính phủ Liên Xô viện trợ cho 918 một trung đoàn máy bay vận tải hạng nhẹ Antonov An-26. Từ đây, hành trình lịch sử của một đơn vị anh hùng bắt đầu.
Chiến đấu và phục vụ chiến đấu
Cuối thập niên 1970, tình hình biên giới Tây Nam căng thẳng khi quân Pol Pot tấn công lãnh thổ Việt Nam. Ít ai nghĩ máy bay vận tải lại có thể trở thành vũ khí tấn công, nhưng lính kỹ thuật của 918 đã nghĩ khác. Họ cải tiến băng chuyền vận tải thành giá đỡ bom. “Cứ buổi chiều chúng tôi triển khai máy bay về sân bay Biên Hòa, nửa đêm, tất cả nhân viên kỹ thuật vũ khí hàng không nạp bom lên máy bay, thậm chí hàng chục chiếc, mỗi chiếc khoảng 3 tấn bom”, Đại tá Hà Đức Tuế, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 918, kể lại.
Ông tiếp lời: “Sang năm 1981, chiến trường diễn ra ác liệt, chúng tôi được lệnh phối thuộc với mặt trận 479 suốt các sân bay Xiêm Riệp, Pô-Chen-Tông, Bát-Tam-Bang để vận chuyển thương bệnh binh từ chiến trường về bệnh viện 175 ở TP. Hồ Chí Minh, đồng thời đưa bộ đội tình nguyện Việt Nam cùng vũ khí đạn dược sang Campuchia làm nhiệm vụ.”
Tổ quốc gọi, 918 bay! Những chiếc An-26 từ thao trường bay thẳng vào chiến trường, xuyên qua rừng núi, qua vùng chiến sự, đầy rẫy pháo kích. Nhớ lại, Đại tá Hà Đức Tuế vẫn rùng mình: “Có những lúc, tổ bay vừa nhận nhiệm vụ xong thì nhận thêm thông báo khả năng dưới các đỉnh núi sẽ có tên lửa vác vai của địch. Thế là chúng tôi phải căng não tính phương án tiếp cận trận địa bằng cách bay vòng thấp, hạ cánh nhanh nhất. Nói thì đơn giản nhưng làm được là cả vấn đề với phi công tổ bay và dẫn đường.”
Họ đã bay bằng tất cả giác quan và bản lĩnh, vận chuyển hàng vạn lượt bộ đội và hàng trăm ngàn tấn hàng quân sự ra chiến trường, đón hàng ngàn thương binh về hậu phương, củng cố tinh thần đoàn kết chiến đấu cao cả của nhân dân và quân đội hai nước Việt Nam - Campuchia. Những cánh bay ngày ấy không chỉ mang theo hàng hóa, quân trang, sinh mệnh đồng đội mà còn có cả khí phách của một dân tộc.
Chuyến bay cảm tử
Có những chuyến bay không mang vũ khí, không mang chiến công, chỉ mang theo thuốc men, quần áo và cờ Tổ quốc. Nhưng chính những chuyến bay ấy đã làm nên lịch sử. Ngày 16/3/1988, chỉ ba ngày sau sự kiện Gạc Ma đầy máu và nước mắt, đảo Sinh Tồn gần như bị phong tỏa. Trên đảo chỉ toàn thương binh, áo quần ướt lạnh, thuốc men cạn kiệt, hậu cần tê liệt.
Ngay lập tức, tổ bay An-26 của Lữ đoàn 918 nhận nhiệm vụ đặc biệt: tiếp tế khẩn cấp cho đảo trong tình huống chưa từng có tiền lệ. “Trong thuốc men có rất nhiều chai truyền mà chúng tôi không có dù chuyên dụng để thả. Phương án đưa ra là đóng thành kiện rồi lèn quần áo xung quanh, sau đó chúng tôi sẽ bay thật thấp rồi thả để tránh xung lực gây vỡ chai truyền, đồng thời phải tính toán sao cho thả hàng dọc bờ biển vì vào sâu quá nguy hiểm cho bộ đội trên đảo, thả xa ngoài biển thì chìm mất”, Đại tá, phi công Nguyễn Anh Sơn vẫn nhớ như in chuyến bay ngày ấy.
“Chỉ cần máy bay xuống dưới 500m thôi là hiệu ứng thị giác khiến mình thấy mặt biển cong như cái chảo và nước biển cao hơn máy bay rồi. Lúc đấy không dám phân tán tư tưởng, chỉ tập trung gần như nín thở để giữ vô lăng cho máy bay bay thật thẳng, không nhấp nhô, bởi vì chỉ cần nghiêng hoặc xuống một tí mà quệt vào nước là xuống luôn khỏi phải lên nữa.”
Đó là những năm cuối thập niên 80, tình hình Biển Đông diễn biến hết sức phức tạp, chủ quyền biển đảo Việt Nam bị đe dọa nghiêm trọng. Chuyến bay cảm tử của 918 ngày 16/3/1988 đã giúp tiếp tế thuốc men, nhu yếu phẩm xuống đảo Sinh Tồn, kịp thời chữa trị, cứu sống bộ đội bị thương trên đảo. “Tôi từng kể lại câu chuyện về chuyến bay ấy trên Facebook rồi một ngày nọ, có bạn nhắn cho tôi rằng, bố em đã trở về vì được cứu sống ở Sinh Tồn. Đọc xong tin nhắn ấy, tôi khóc!”, Đại tá Nguyễn Anh Sơn đưa cả hai tay lên lau dòng nước chảy dài trên má. Đối với ông, chuyến bay thật thấp, thật chính xác và thật dũng cảm xuyên qua đội hình tàu địch vây đảo năm ấy đã trở thành kỳ tích.
Những cánh bay trong cơn hồng thủy
“Vút lên trời cao anh bay vào giông tố, về với miền trung quê mẹ yêu thương. Đâu những hàng tre xóm làng quen thuộc, giữa đêm mùa đông lũ tràn về xóa hết, bến nước cây đa giờ ngập trắng mênh mông…” Đó là lời ca khúc “Những cánh bay giữa trời hồng thủy” được Đại tá Mai Khả Độ, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 918, sáng tác trong trận lũ lịch sử ở miền Trung năm 1999. Hàng nghìn ngôi nhà bị nước lũ cuốn trôi, hàng vạn người chịu cảnh màn trời chiếu đất, cơn ác mộng ấy có lẽ vẫn còn ám ảnh trong tâm trí mọi người.
Giữa những thời khắc gian nguy nhất của thiên tai, bão lũ hay tai nạn khẩn cấp, khi sinh mạng người dân bị đe dọa, những cánh bay của 918 lại lập tức lên đường. “Chúng tôi thiết lập một cầu hàng không quân sự đặc biệt dành cho chiến dịch cứu trợ miền Trung, phía bắc từ Gia Lâm - Vinh - Đồng Hới - Phú Bài - Đà Nẵng; phía nam từ Tân Sơn Nhất - Đà Nẵng - Chu Lai - Phú Bài. Thời tiết vô cùng xấu nhưng tổ bay nào cũng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ”, Đại tá Mai Khả Độ nhớ lại.
Đại tá Hà Đức Tuế tiếp lời: “Tất cả anh em phi công và các lực lượng khác từ thợ máy đến cơ quan hậu cần, kỹ thuật, thông tin đều gồng mình lên tiếp nhận hàng cứu trợ rồi phục vụ các chuyến bay. Có những phi công và tổ bay ở hàng tháng trời trong sân bay Phú Bài, có những phi công làm con thoi cứ từ Đà Nẵng - Phú Bài, Phú Bài - Đà Nẵng, có những chỉ huy bay ở hẳn đơn vị đến hết chiến dịch.”
Không phân biệt ngày đêm, mưa bão hay địa hình hiểm trở, những người lính 918 đã thực hiện hàng trăm chuyến bay chuyển hàng cứu trợ, đưa người bị thương về tuyến sau. Có những tổ bay bay vào tâm bão, hạ cánh trong điều kiện gần như không thể, chỉ với một mục tiêu duy nhất: cứu người. Tinh thần sẵn sàng chiến đấu trong thời bình với thiên tai, hiểm nguy vì tính mạng và sự an toàn của nhân dân, đó không chỉ là nhiệm vụ mà còn là mệnh lệnh từ trái tim, là lòng nhân ái, là nghĩa đồng bào trong cơn hoạn nạn.
Bay giữa trời Tổ quốc
Sinh ra từ ngày chiến thắng, ngay từ những năm đầu sau thống nhất đất nước, Lữ đoàn Không quân 918 đã đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ quan trọng mà Đảng, Nhà nước, Quân đội và Nhân dân giao phó: bay chuyển tiếp chỉ huy cho máy bay tiêm kích, bay tuần tiễu, trinh sát Trường Sa; bay vận chuyển hàng viện trợ quốc phòng, phục vụ hội nghị quốc tế, đón đưa cán bộ cấp cao đi công tác nước ngoài. Đặc biệt, năm 2014, Lữ đoàn đã tham gia chiến dịch tìm kiếm máy bay mất tích MH-370 của hãng hàng không Malaysia trên vùng biển quốc tế. Với tinh thần khẩn trương, trách nhiệm và nhân đạo, các tổ bay của 918 đã góp phần thể hiện hình ảnh Việt Nam là quốc gia chủ động, có trách nhiệm trong hợp tác quốc phòng đa phương.
Trong suốt hành trình đó, cùng với những chiến công thầm lặng là những tổ bay mãi mãi ở lại với bầu trời, hóa thân thành mây, gió để nâng cánh bay cho thế hệ hôm nay. Không phải lúc nào cất cánh cũng có nghĩa là hạ cánh an toàn. Nghề phi công quân sự, đặc biệt với lực lượng vận tải làm nhiệm vụ cả ngày lẫn đêm với địa hình bay phức tạp, núi cao, biển xa, luôn tiềm ẩn nguy cơ. Đã có những chuyến bay mãi mãi không trở lại, dù rằng họ đã phải trải qua hàng trăm giờ kiểm tra kỹ thuật, hàng ngàn giờ huấn luyện và vô vàn mồ hôi, sức lực, trí tuệ trước khi cất cánh. Hàng không vốn luôn tiềm ẩn những rủi ro đặc thù như thế. Chính sự chấp nhận rủi ro để thực hiện nhiệm vụ đã làm nên phẩm chất đặc biệt của lính bay, những con người sẵn sàng hiến dâng cuộc đời mình cho trời xanh Tổ quốc. Lịch sử nào cũng có máu và nước mắt. Lịch sử của 918 hôm nay tự hào vì một phần xương máu của đồng đội mình đã dành để đổi lấy hòa bình.
Khẳng định quyết tâm của toàn lực lượng trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đại tá Đỗ Văn Lành, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Không quân 918, cho biết: “Hiện nay, Lữ đoàn đã làm chủ nhiều loại máy bay hiện đại như CASA-212, CASA 295 có tích hợp radar biển, hệ thống định vị, thông tin số hóa, khả năng bay dài ngày trên biển, thực hiện tốt các nhiệm vụ vận tải, tuần tra, cứu hộ và giám sát không, biển.”
Lữ đoàn 918 hôm nay là sự giao thoa giữa bản lĩnh cha anh và sức bật thời đại để mỗi khi máy bay lăn bánh trên đường băng, là một thế hệ mới tiếp tục bay lên bằng đôi cánh niềm tin và trách nhiệm. Ở 918, người ta thấy những “cánh bay thời gian” nối tiếp quá khứ hào hùng và viết tiếp tương lai vững mạnh. Dù năm tháng qua đi, đó vẫn mãi là đôi cánh của nhân dân, của Tổ quốc, của tương lai.