Có một buổi sớm tháng Chín của tám mươi năm về trước. Trên Quảng trường Ba Đình, lá cờ đỏ sao vàng từ từ vươn lên trong gió, như nâng cả bình minh của dân tộc. Khi mặt trời ló rạng cũng là lúc giọng Người vang vọng, mộc mạc mà dõng dạc, giản dị mà hùng hồn, thay mặt triệu con tim nói lời đợi chờ suốt ngàn năm: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Từ giây phút ấy, bánh xe lịch sử rẽ sang một hướng mới và dân tộc Việt Nam như dòng sông dồn nước gặp biển khơi, vỡ òa trong niềm hạnh phúc bất tận khi ôm trọn bầu trời của chính mình.
Nhưng con sông ấy khởi nguồn từ rất xa. Từ lời thề trên sông Như Nguyệt: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Từ đạo trị quốc của Nguyễn Trãi, khi “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”. Những câu chữ ấy là trống đồng của tinh thần, âm vang qua thế kỷ, dẫn bàn chân Việt đi giữa muôn vàn thử thách.
Và từ buổi sáng mùa thu 2/9 ấy, cả dân tộc bước ngay vào thế kỷ lửa. Lời thề độc lập chưa kịp khắc sâu trên bia đá thì đã được khắc bằng máu nơi chiến trường. Có những bờ tre lặng lẽ ghi tên người ở lại, có những dòng sông hóa thành số hiệu thay cho tên gọi. Trong túi áo người lính, lá thư nhàu đi trong mồ hôi và mưa; trong mắt người mẹ, cơn giông âm thầm cư ngụ suốt mùa đông chờ đợi. Nhưng Tổ quốc không ở đâu xa, Tổ quốc ở cái nắm tay siết chặt trước giờ xung phong, ở tiếng suối Trường Sơn đêm đêm ru đoàn quân ra trận, ở mái nhà chưa kịp lợp rạ đã hóa thành bến đợi người đi. Trong tiếng bom gầm, lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trở thành ánh sáng dẫn đường. Những chiến sĩ Điện Biên Phủ đã làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Những đoàn quân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đã hóa Trường Sơn thành huyết mạch nối hai miền, để mùa xuân 1975 cả dân tộc bừng nở trong ngày thống nhất. Máu và nước mắt đã đắp nên dáng hình đất nước, để Tổ quốc được toàn vẹn, non sông liền một dải.
Và kể từ sau ngày 30/4/1975, khi đất nước vừa nối liền những miền cuối cùng của non sông, hòa bình chưa kịp ngơi nghỉ thì thử thách mới lại gõ cửa từng trái tim người Việt. Trên biên giới Tây–Nam, trong Chiến dịch phản công, mồ hôi và máu vẫn thấm đẫm cánh đồng, rừng tràm, bảo vệ từng tấc đất, từng mái nhà cho đồng bào yên bình. Năm 1979, khi chiến tranh biên giới với Trung Quốc bùng nổ, những bước chân kiên cường của người lính lại in trên đất cháy, giữa tiếng pháo và khói lửa, để một lần nữa khẳng định tinh thần bất khuất, ý chí sắt đá của dân tộc. Đến Trường Sa năm 1988, trên sóng biển mịt mù khói lửa, những trái tim quả cảm đã bảo vệ từng hòn đảo, từng tấc biển thiêng liêng, để Tổ quốc không chỉ tồn tại trên bản đồ mà sống động trong nhịp tim, trong máu và hơi thở của mỗi người con Việt Nam.
Hòa bình trở lại, đất nước đi tiếp một cuộc trường chinh mới. Những năm tháng hậu chiến chất chồng khó khăn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, vết thương chiến tranh còn rớm máu. Nhưng ý chí Việt Nam không cho phép dừng lại. Từ mùa thu 1986, cánh cửa Đổi mới mở ra, đưa đất nước băng qua bao thử thách để trở thành một quốc gia đang vững vàng hội nhập. Từ nông thôn đến thành phố, từ biên giới đến hải đảo, đâu đâu cũng in dấu nỗ lực xây dựng, khẳng định “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Và giờ đây, trong kỷ nguyên mới, vận mệnh đất nước mở ra trước mắt, rộng lớn như bầu trời tháng Chín rực sáng. Nhân dân Việt Nam, với niềm tin vững chắc và ý chí kiên cường, đứng trước dòng chảy đổi mới, hội nhập và phát triển. Những miền đất, những con đường, những biển đảo đều mang dấu chân của sự sáng tạo, lao động và khát vọng vươn lên.
Dưới lá cờ đỏ sao vàng tung bay, niềm tin của Nhân dân như ánh sáng dẫn đường, soi rọi những con tim hướng về chân trời rộng mở. Vận mệnh đất nước là câu chuyện của mỗi người, của mọi thế hệ, nối tiếp những trang sử hào hùng và hứa hẹn một tương lai rực rỡ, nơi Việt Nam tiếp tục vươn mình, tự tin sánh vai cùng các cường quốc và trường tồn cùng non sông đất nước./.