Tôi muốn bổ sung 4 vấn đề, hoặc 4 câu chuyện.
1. Nếu Vũ Bằng ngừng viết trước năm 1945 như Vũ Trọng Phụng... Nếu như không có cuộc “dinh tê” về thành (tức Hà Nội) vào cuối 1948 và sự ra đời truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao... Hoặc, nếu như không có cuộc vào Nam, và định cư ở phía Nam trong suốt 30 năm, từ năm 1954 đến 1984... thì chắc chắn, với ba tiểu thuyết Một mình trong đêm tối (1937), Truyện hai người (1940), và Bèo nước (1944) có chung cặp nhân vật Hải - Trâm, với mối tình ngoài luồng và duyên phận bèo nước của họ, với những sa ngã trong cuộc sống trụy lạc ở họ; cùng một tập truyện ngắn: Để cho chàng khỏi khổ (1941) và cuốn hồi ký Cai (1943) đặc tả những cơn nghiện và hành trình quyết tâm cai nghiện của nhân vật tác giả, Vũ Bằng sẽ có tên trong lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, không chỉ trong tư cách một cây bút hiện thực nổi tiếng mà còn là người hoạt động, người tổ chức nên đời sống văn học và báo chí cho mùa gặt ngoạn mục văn chương Việt hiện đại thế kỷ XX. Và như vậy, Vũ Bằng sẽ ở trong cùng hàng ngũ với những tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài... trước khi kể đến Nguyễn Đình Lạp, Mạnh Phú Tư, Tam Lang, Bùi Hiển, của sup Kim Lân...
Có nghĩa là, với Vũ Bằng, tuy sự nghiệp viết là liên tục trong cả ba thời kỳ: Trước năm 1945; 1945 - 1954 ở Hà Nội bị tạm chiếm; và sau năm 1954 ở miền Nam; nhưng do những sự kiện diễn ra gần với ông sau năm 1945 như đã kể trên, nên tất cả những đóng góp của ông sắp xếp của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, bỗng bị quên, trong tư cách một nhà văn tiêu biểu thuộc dòng “tả chân” như cách hoặc bị coi nhẹ, không được nói đến trong suốt một thời dài cho đến năm 1990 trong giới nghiên cứu - giảng dạy miền Bắc, bởi một “lý qua lịch” hoặc là không trong sạch, hoặc là không rõ ràng sau 1945, cả hai chặng: chặng 1948 - 1954 trong Hà Nội bị Pháp chiếm; và sau 1954 ở miền Nam, dưới chế độ Mỹ - ngụy...
2. Nói Vũ Bằng, ít nhất có hai kỷ niệm, hoặc hai câu chuyện gắn với Nam Cao. Trong tư cách là Thư ký tòa soạn của Tiểu thuyết thứ Bảy, và nhiều tờ báo quan trọng khác trước 1945, như Trung Bắc tân văn, Trung Bắc chủ nhật. Vũ Bằng đã là người phát hiện hoặc “bà đỡ” cho nhiều sáng tác đầu tay của những người viết đang tập vào nghề, như Tô Hoài, Nam Cao..., trong đó câu chuyện thú vị và đáng nhớ nhất là câu chuyện Vũ Bằng “nhặt” được trong số bản thảo loại bỏ một truyện của Nam Cao có tên là Cái lò gạch cũ. Truyện này là truyện đầu tay của Nam Cao, viết năm 1941, nhờ vào mắt xanh của Vũ Bằng, nên không chỉ được đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy, mà còn được Vũ Bằng nhờ một bậc đàn anh viết cho một Lời tựa và đổi tên là Đôi lứa xứng đôi, và lập tức nổi tiếng, rồi trở thành đỉnh cao không chỉ trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, mà còn là cả trào lưu hiện thực 1941-1945; không chỉ là riêng trào lưu hiện thực mà còn là cả nền văn xuôi hiện đại thế kỷ XX.
Chắc chắn là Nam Cao đã chịu ơn Vũ Bằng rất nhiều. Và từ mối quan hệ này mà có tiếp câu chuyện về truyện ngắn Đôi mắt Nam Cao viết ở Vàng Kheo vào Tết 1948, lẽ ra sẽ mang tên là Tiên sư anh Tào Tháo; nhưng rồi lại được đổi thành Đôi mắt cho nó hiền, và lành đi một chút; hoặc cho nó giản dị và đứng đắn, theo cách tác giả viết trong nhật ký Ở rừng, ngày 2/3/1948; để nói trúng một vấn đề đặt ra cho sinh hoạt văn nghệ nước ta vào một thời chuyển đổi có tên là cách mạng và kháng chiến.
Đôi mắt tôi thấy cả hai nhân vật Hoàng và Độ đều dễ thương. Đọc Cả hai đều trung thực với mình. Đều muốn gạt bỏ mọi cách bức để đến với nhau một cách thành tâm, như tình bạn đòi hỏi thế, trong khi Độ đã là... con người mới, còn Hoàng vẫn nguyên vẹn nếp sống.. cũ. Tiếp cận ánh sáng mới của cách mạng, Độ chân thành nói lên những suy nghĩ mới của mình, nhưng không chút lên gân, hoặc lên giọng. Còn Hoàng vẫn trung thành trong những suy nghĩ về người nông dân, về cách mạng, và cả về ông Cụ (tức Hồ Chí Minh), gần như là cái phao cuối cùng để cho Hoàng tin tưởng...
Trong con mắt Độ, và trong quan hệ với Độ, Hoàng vẫn là một người bạn nghề có khác nhau về quan niệm, về cách nhìn, về “đôi mắt”, nhưng không phải là người gây nên ác cảm, lại càng không phải là... kẻ thù, dẫu chỉ là về tư tưởng! Họ vẫn có thể chuyện trò cùng nhau suốt cả buổi; cùng ngủ chung với nhau; cùng nghe đọc Tam quốc. Nếu có một lấn cấn nhỏ thì đó là nỗi lo một chú rận hứng chí lang thang từ bộ sơ mi dã chiến của Độ sang bộ ngủ thoảng nước hoa của Hoàng...
Thế nhưng trong suốt mấy chục năm, các giới phê bình, giảng dạy văn học và người đọc miền Bắc, trong đó có tôi, đã rất “căng cứng” trong phân tích, bình giảng để tạo nên sự đối lập giữa hai cách sống, ứng với hai hoàn cảnh, đi theo kháng chiến và về thành; ở lại miền Bắc và vào Nam; khiến cho Hoàng trở thành một nhân vật phản diện về tư tưởng và lối sống.
Sau này - mãi cho đến đầu 2000, khi biết Vũ Bằng là nhân vật nằm trong một đường dây hoạt động tình báo của ta (tức Việt Minh và Bắc Việt), tôi lại nghĩ: Hóa ra đó là một câu chuyện hay; có nghĩa là chính Nam Cao đã rất có công trong việc tạo dựng cho Vũ Bằng một gương mặt, một bộ khoác thích hợp cho việc... ngụy trang, để tránh nguy hiểm cho hoạt động tình báo trong lòng địch. Dù là vô tình hoặc cố ý, với tiền sử hoặc tiểu sử là nhân vật Hoàng trong Đôi mắt, hẳn chắc Vũ Bằng sẽ có phần an toàn hơn trong những năm sau 1954 ở miền Nam, nếu như hoạt động tình báo của tác giả được xác nhận.
3. Những người viết mặc áo lính, theo binh nghiệp, rồi có hàm tướng hoặc đại tá trong giới nhà văn chúng ta có rất nhiều; trong đó có không ít người xứng đáng được phong Anh hùng. Nhưng về hoạt động tình bảo thì giới văn chương còn rất ít, nếu không nói là chưa có, trừ trường hợp Vũ Bằng. Đây là một sự nghiệp lớn, phải chịu rất nhiều hy sinh. Và riêng trong trường hợp Vũ Bằng thì sự hy sinh là quá dài. Bởi, đáng lẽ lịch sử hoạt động tình báo của ông phải được sáng tỏ ngay từ sau 1975, khi cuộc chiến kết thúc. Hoặc chậm lắm là trước hoặc sau 1984 - ngày ông qua đời. Thế mà phải chờ đến đầu thập niên 2000, khi chiến tranh đã kết thúc 25 năm; hoặc khi ông đã qua đời 16 năm! Do đâu có sự kéo dài như thế tưởng cũng nên làm cho sáng tỏ nhờ vào các hồ sơ mật của cơ quan an ninh. Bởi, nếu sự thực Vũ Bằng có một đóng góp lớn như thế, và một hy sinh thầm lặng như thế thì rất cần một tôn vinh, một tưởng thưởng xứng đáng của Nhà nước; càng rất cần truyền thông rộng rãi cho mọi giới công chúng, trong đó có Hội Nhà văn.
4. Ba mươi năm ở miền Nam, Vũ Bằng vẫn liên tục viết, và viết được khá nhiều, nhưng trong đó mảng viết đặc sắc nhất lại là mảng viết về nỗi hoài nhớ đất Bắc và thủ đô Hà Nội như trong Miếng ngon Hà Nội (1960), Thương nhớ mười hai (1971) và Bốn mươi năm nói láo (1969). Đây là sự tiếp nối rất tuyệt vời cho những trang về Hà Nội được tạo dựng bởi Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài trước 1945. Bốn tên tuổi này xứng đáng là một bộ tứ bình quý hiếm về nghìn năm văn vật Hà Nội. Sau 1945, ở nửa sau thế kỷ XX, cả ba (trừ Thạch Lam mất năm 1942) vẫn tiếp tục viết về Hà Nội, nhưng không liền mạch và có độ tập trung cao, với những xúc động riêng tư sâu sắc và cảm động như Vũ Bằng. Bởi, với Vũ Bằng, những khoảng cách thời gian và không gian chính là ưu thế làm nên độ lắng đọng cho mọi kỷ niệm.
Như vậy cần ghi nhận thêm công lớn cho Vũ Bằng trong tư cách nhà văn của Hà Nội (quê gốc Hải Dương; quê sinh phố Hàng Gai - Hà Nội), thuộc trong số người hiếm hoi đã để lại một sự nghiệp gắn với cốt cách thanh lịch, văn minh của người Tràng An - kết tinh vẻ đẹp của hồn Việt.
Một chân dung đầy đặn và đa diện, với một ít góc khuất cần có thêm thời gian làm sáng tỏ, nhân và sau 100 năm sinh ở thời điểm hôm nay - đó là Vũ Bằng.