Do thực trạng các doanh nghiệp bị cắt giảm đơn hàng, lãi suất ngân hàng lại tăng cao vào đúng những tháng cuối năm dẫn đến việc hàng ngàn người lao động thiếu việc hoặc bị mất việc. Theo thống kê của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ diễn ra ở 28 địa phương với 485 doanh nghiệp bị ảnh hưởng, do bị giảm, mất đơn hàng. Riêng khu vực phía Nam chiếm tới gần 62% doanh nghiệp và 87% lao động.
Đặc biệt trong số đó phải kể đến ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ giảm đơn hàng nhiều nhất, từ 30-50%; tiếp đến là điện tử, thực phẩm, dịch vụ, du lịch...
Qua thống kê cũng cho thấy, đến ngày 9/11, tổng cộng có 570.000 công nhân bị giảm giờ làm; 34.500 người bị chấm dứt hợp đồng; hơn 31.000 người nghỉ không lương, tạm hoãn hợp đồng. Các hình thức phổ biến là cắt giảm giờ, làm cách nhật, nghỉ hưởng lương ngừng việc và nghỉ không hưởng lương.
Trước tình trạng trên, bà Hồ Thị Kim Ngân, Phó ban Quan hệ lao động, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam cho rằng, nguyên nhân dẫn tới "làn sóng" cho công nhân nghỉ việc là do doanh nghiệp gặp khó khăn chung khi thiếu hụt đơn hàng. Đồng Nai, Bình Dương, Long An, An Giang... là những địa phương có đông công nhân và tỷ lệ cắt giảm nhiều nhất.
Cũng theo bà Ngân, Công đoàn sẽ cùng với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) họp bàn giải pháp hỗ trợ người lao động. Nếu tình trạng kéo dài với số lao động bị ảnh hưởng lớn, theo bà Ngân, cần sớm có chính sách hỗ trợ từ nhà nước và địa phương nơi đặt khu công nghiệp.
"Trước mắt, công đoàn cơ sở cùng doanh nghiệp bàn bạc, xác định lại những đơn hàng ưu tiên, giữ chân công nhân trong khi chờ tình hình ổn định trở lại. Đối tượng được ưu tiên hỗ trợ là công nhân khó khăn, thực hiện bằng kinh phí công đoàn, để người lao động yên tâm những ngày cuối năm này", bà Ngân nói thêm.
Chia sẻ từ Phó ban Quan hệ lao động, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam cho hay, các doanh nghiệp cần phòng ngừa tình trạng thiếu hụt lao động như sau đợt dịch vừa qua. Cụ thể, do sản xuất khó khăn khiến nhiều doanh nghiệp cắt giảm lao động và tới khi có đơn hàng thì tuyển dụng không kịp, khiến cho thị trường thiếu hụt cục bộ.
Ông Vũ Trọng Bình - Cục trưởng Cục Việc làm chia sẻ, hiện nay, có những ngành thiếu hụt lao động, song vẫn còn nhiều ngành nghề cũng đang đẩy mạnh hoạt động tuyển dụng.
Cục Việc làm đã chỉ đạo các Trung tâm Dịch vụ việc làm giải quyết ngay chế độ bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động bị mất việc làm. Những doanh nghiệp cắt giảm lao động lớn, phải tập trung giải quyết khó khăn cho lao động.
"Song song với quy trình giải quyết bảo hiểm thất nghiệp, các Trung tâm Dịch vụ việc làm cũng sẽ đẩy mạnh kết nối, tìm kiếm cho lao động mất việc. Đề xuất Ngân hàng Chính sách tăng nguồn vốn vay tạo việc làm cho người lao động về quê", ông Bình cho biết.
Cục Việc làm sẽ đề xuất giải pháp theo nhiều tầng để hỗ trợ tối đa người lao động như đề xuất đẩy mạnh đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia... Những giải pháp trên sẽ là cách tạo ra nhiều công ăn, việc làm cho người lao động.
Ông Phạm Ngọc Toàn, Giám đốc Trung tâm Phân tích và Dự báo chiến lược, Viện Khoa học Lao động và Xã hội cho biết: trước tình trạng lao động mất việc, giãn việc đang xảy ra tại nhiều thành phố lớn, dự báo, tình trạng cắt giảm việc làm sẽ kéo dài ít nhất đến hết quý I/2023 vì liên quan chu kỳ sản xuất kinh doanh khi nhiều doanh nghiệp bị thu hẹp đơn hàng.
Các đơn hàng doanh nghiệp nhận được cuối năm nay bị thu hẹp buộc các doanh nghiệp phải cắt giảm lao động, giảm giờ làm. Song ông Toàn cho rằng "làn sóng" này mang tính cục bộ như sau đại dịch và sẽ ổn định khi đơn hàng quay trở lại.
"Theo khảo sát, nhiều doanh nghiệp lớn suy giảm đơn hàng nhưng giữ chân lao động bằng cách giảm giờ làm, nghỉ luân phiên, trả 70% lương. Các doanh nghiệp họ cũng đã tính đến tình huống nếu sa thải hàng loạt sẽ tốn kém chi phí tuyển dụng mà chưa chắc đã tuyển được người khi đơn hàng quay trở lại trong khi giữa các ngành vẫn đang cạnh tranh nhau", ông cho biết.
Theo đánh giá của các chuyên gia những cú sốc thời đại dịch và các đợt cắt giảm việc làm có thể khiến lao động thay đổi hành vi và tạo xu hướng mới.
Quan điểm của người lao động đã thay đổi, trước đây sẵn sàng di đến các thành phố lớn, các khu công nghiệp làm việc và sinh sống. thì nay sau đại dịch họ đã trở về với lối nghĩ truyền thống làm việc ngay tại quê nhà hoặc các vùng lân cận. Mức thu nhập thấo hơn nhưng chi phí gần như không mất và độ an toàn cao hơn. Cũng từ đó lại tạo ra thách thức mới về thiếu lao động trong các doanh nghiệp, các khu công nghiệp gây thêm khó khăn cho việc cung ứng lao động.
Chuyên gia này cũng cho rằng lâu dài cần phải nghĩ đến việc xây dựng các khu công nghiệp vệ tinh thu hút lao động tại chỗ, không tập trung tại các thành phố lớn nữa. Vấn đề đặt ra ở đây là các khu công nghiệp này có tồn tại được hay không phụ thuộc vào việc đảm bảo an sinh cho công nhân như nhà ở, trường học… Điều đó dẫn đến việc nếu không đáp ứng được nhu cầu đó thì nguồn nhân lực từ các vùng miền lại đổ về thành phố lớn, khi đó vấn đề nhân lực lại quay trở về như hiện tại.