Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Hiện nay trên thế giới, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, văn hóa để quyền con người được gắn với vấn đề phát triển bền vững, trở thành một chủ đề lý luận cơ bản, hết sức bức thiết. Việc giải quyết vấn đề quyền con người theo các loại lý thuyết khác nhau, không phải bao giờ cũng có sự thống nhất, mặc dù mục đích đặt ra là vươn tới tìm kiếm một mô hình xã hội phát triển tự giác - mô hình có sự quản lý, điều tiết, dựa trên trí thức khoa học và chủ nghĩa nhân văn. Nghiên cứu quyền con người mang tính tổng hợp các tri thức triết học, kinh tế học, luật học, xã hội học... nhằm phát hiện ra quy luật đảm bảo thực hiện quyền con người một cách triệt để.
img-0931-1729768797.jpeg
Quan niệm về quyền con người và giải quyết vấn đề nhân quyền ở Việt Nam được rọi sáng bởi các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. ( Ảnh: hochiminh.vn)

Quá trình vận động tất yếu lịch sử và xu thế giải quyết quyền con người cho thấy: Các giá trị làm người, các quyền cơ bản của con người được bảo đảm và thực hiện đến cùng trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội hiện thực và chế độ cộng sản tương lai, khi mà “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. 

Quan niệm về quyền con người và giải quyết vấn đề nhân quyền ở Việt Nam được rọi sáng bởi các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Từ truyền thống dân tộc, đặc điểm thời đại, con người hiện thực, Hồ Chí Minh là một trong những người Việt Nam đầu tiên để cập đến khái niệm nhân quyền và dùng khái niệm nhân quyển trong các lập luận đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, bảo vệ, bênh vực nhân quyền của các dân tộc thuộc địa. Đồng thời, Hồ Chí Minh đã giành lại ngọn cờ dân chủ nhân quyền từ chủ nghĩa thực dân, xem những quyền đó là lý tưởng của chế độ xã hội, là bản chất của Nhà nước ta. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là nghiên cứu một trong những nội dung có ý nghĩa dân tộc và thời đại của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm khẳng định giá trị lâu bền và tính phổ biến của nó trong quá trình liên tục của nền văn minh nhân loại hiện đại. 

1. Quan điểm tiếp cận của Hồ Chí Minh về quyền con người

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là sự thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc trong lịch sử tư tưởng nhân loại về quyền con người và là sự kế thừa một cách biện chứng những giá trị truyền thống đạo lý, ngàn năm văn hiến của dân tộc. Đó là sự thể hiện cao nhất chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa yêu nước chân chính của Hồ Chí Minh nhằm giải phóng toàn diện con người, phát triển hoàn thiện nhân cách của mỗi người, đem lại cho mỗi chúng ta cái “quyền làm người” từ “kiếp sống dân đen nô lệ”, là khát vọng cháy bỏng mà Hồ Chí Minh suốt đời theo đuổi và thực hiện.

Hồ Chí Minh có cách tiếp cận quyền con người mới mẻ và sâu sắc, xuất phát từ truyền thống dân tộc từ đặc điểm của thời đại và con người hiện thực Việt Nam đang bị địa chủ phong kiến và đế quốc thực dân áp bức, bóc lột để xem xét và quốc gia vấn đề quyền con người. Với cách tiếp cận đó thì quyền con người ở Việt Nam chỉ có thể được giải quyết thông qua một cuộc cách mạng hiện thực, giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam: Mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến và mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thế lực đế quốc thực dân. Cuộc cách mạng đó giành được thắng lợi, nhân dân Việt Nam mới có điều kiện thực hiện các quyền dân sự chính trị cũng như các quyền kinh tế xã hội và văn hoá.

Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên tiếp cận vấn đề quyền con người sớm nhất và rộng nhất.

Ngay từ những năm 1919, trong bức thư 08 điểm gửi Hội nghị Vecxay, Người đã đề cập đến những quyền rất cơ bản của con người như: Ân xá toàn thể chính trị phạm Việt Nam, bỏ hẳn toà án đặc biệt, thay thế chế độ sắc lệnh bằng đạo luật, đòi quyền tự do báo chí, tự do tư tưởng, hội họp, lập hội, tự do cư trú, xuất dương, học tập và mở trường kỹ thuật chuyên nghiệp cho người bản xứ ở khắp các tỉnh. Tư tưởng nhân quyền ấy về sau được phát triển trong rất nhiều tác phẩm khác nhau: Bài phát biểu tại Đại hội Tua năm 1920; Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925...

Năm 1925, trong bản dịch Quốc tế ca, Người viết: 

“Việc ta ta phải gắng lo,

Chẳng nhờ trời phật, chẳng nhờ thần linh

Công nông mình cứu lấy mình,

Sửa sang thế tạo kinh dinh nhân quyền...”

Như vậy, Hồ Chí Minh từ rất sớm đã công khai dùng thuật ngữ “nhân quyền”. Mặt khác, Hồ Chí Minh không chỉ nói quyền con người mà còn phát triển thành quyền làm người.

Người đề cập đến ý tưởng nhân quyền rộng nhất, vì Người không chỉ đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam mà còn cho nhân dân Đông Dương và “những người lao khổ” trên thế giới, rằng “đòi Chính phủ các nước coi người da đen là người”. Và về sau, trong “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945, Người cũng đã trích “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ năm 1776, “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp năm 1789, coi đó như là những giá trị nhân quyền phổ biến của thời đại: “... tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Quan điểm tiếp cận của Người có thể nhắc đến như sau:

Thứ nhất, có thể nói rằng, với việc ra đi tìm đường cứu nước để tìm hiểu xem đằng sau những từ “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” là gì, với việc tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và tinh hoa văn hoá nhân loại, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên tiếp cận vấn đề quyền con người sớm nhất trên tinh thần khoa học và biện chứng.

Tư tưởng nhân quyền được Hồ Chí Minh thể hiện một cách sâu sắc, triệt để bằng việc tố cáo, lên án, vạch mặt chế độ thực dân đã khiến cho ở xứ Đông Dương “nhà tù nhiều hơn trường học… Người An Nam bị phân biệt đối xử, họ không có những sự bảo đảm như người châu Âu hoặc có quốc tịch châu Âu… không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội… không có quyền cư trú và du lịch nước ngoài… không có quyền tự do học tập”. Vấn đề này được Hồ Chí Minh thể hiện nhất quán trong các tác phẩm tiêu biểu sau này Bản án chế độ thực dân Pháp, 1925, Tuyên ngôn độc lập, 1945,…

Thứ hai, việc tiếp cận vấn đề quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính tổng thể, toàn diện. Đọc các tác phẩm, bài nói, bài viết cũng như nghiên cứu hoạt động thực tiễn của Người, ta thấy điểm nổi bật ở Hồ Chí Minh không giống những nhà tư tưởng trước đó ở chỗ là: Người không chỉ đòi quyền tự do, quyền sống, quyền được học hành,… cho cá nhân mà là đòi cho số đông dân cư, cho cả dân tộc bị áp bức. Người không chỉ đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam mà còn cho nhân dân các nước Đông Dương và “những người lao khổ” trên thế giới, “đòi Chính phủ các nước coi người da đen là người”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là sự thống nhất toàn diện giữa các quyền dân sự, chính trị; quyển về kinh tế, văn hoá và xã hội; quyền trẻ em, quyển phụ nữ... và được ghi nhận trong các bản Hiến pháp 1946, 1959 do Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo. Trong Lời nói đầu bản Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định rằng Nhà nước phải bảo đảm: Quyền tự do dân chủ, quyền làm chủ của Nhân dân, quyền bình đẳng nam nữ, giai cấp, tôn giáo. Việc pháp điển hoá thành Luật Hiến pháp quyền con người, quyền công dân, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện nó. Chẳng hạn, điểu 6, Hiến pháp năm 1946 quy định: “Tất cả mọi công dân Việt Nam đều ngang quyển về mọi phương diện: Chính trị, kinh tế, văn hoá...”. Người luôn xem việc tạo ra việc làm cho mọi công dân là nhu cầu thiết yếu để hiện thực hoá quyền kinh tế - xã hội và văn hoá, và việc hiện thực hoá quyền này là cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện các quyền khác.

Thứ ba, Hồ Chí Minh tiếp cận vấn đề nhân quyền bằng việc tiếp thu kiến thức văn hoá phương Đông và phương Tây. Trước khi đi ra nước ngoài, trong hành trang của Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa, chọn lọc triết học phương Đông với tư tưởng “đề cao Nhân dân”, “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”(Mạnh Tử). Nhân dân trong quan niệm của Hồ Chí Minh là những người lao khổ, là nhân dân lao động - những người sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội, được coi là một trong 3 ngôi lớn: Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhân hoàng. Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân”.

Hồ Chí Minh không chỉ đề cao vai trò, vị trí của Nhân dân nói chung mà quan trọng hơn là Người đã kế thừa và phát triển sáng tạo truyền thống chính trị “lấy dân làm gốc” của cha ông ta được hình thành và kiểm nghiệm suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Tư tưởng về coi trọng Nhân dân, đề cao sức mạnh của quần chúng nhân dân cũng là sự kế thừa tư tưởng mác-xít về vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử, rằng “cách mạng là sự nghiệp quần chúng”.

Không chỉ tiếp cận quyền con người, quyền công dân bằng kiến thức phương Đông, Hồ Chí Minh cho rằng: Nhân quyền là vấn đề nhạy cảm, mang tính giai cấp, nhưng đồng thời cũng là một trong những giá trị nhân văn, nhân đạo chung của nhân loại. Trong quá trình xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo những tư tưởng dân chủ, nhân quyền triệt để nhất, tiến bộ nhất của thời đại. Chẳng hạn, khi xây dựng Hiến pháp năm 1946, Hồ Chí Minh đã đặt ra thiết chế dân chủ “Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe” (Điều 30). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn thể hiện nhất quán tư tưởng “lấy dân làm gốc”, coi quyền lực Nhà nước là ở Nhân dân.

Thứ tư, nhìn chung cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về quyền con người mang tính sáng tạo, độc đáo. Tư tưởng Hồ CHí Minh về quyền con người được hình thành ngay từ những năm đầu của cuộc hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Người. 

Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa quyền con người vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc và giai cấp nhất định. Hơn thế nữa, trong bài viết Đây là công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh quyền làm người. Người viết: “Chưa có bao giờ, ở một thời đại nào, ở một nước nào, người ta lại vi phạm quyền làm người một cách độc ác, trơ tráo đến thế”.

Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về quyền con người, ngay từ đầu đã mang tính hành động, tính cách mạng sâu sắc. Điều đó được chứng mình rằng trong mỗi bước phát triển và hoàn thiện lý luận của mình về con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đã thể hiện thường trực khát vọng cháy bỏng của Người nhằm đưa lại cho mỗi người không chỉ là quyền con người (quyền sống thuần tuý - Droit de L'homme), mà còn là quyền làm người (quyền phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình - Droit d'rete L'homme). Thực vậy, với tư cách là người thì con người không chỉ cần ăn, ở, mặc, đi lại... để tồn tại mà còn phải vươn lên để phát minh, sáng tạo, thúc đẩy lịch sử - xã hội phát triển, do đó, còn cần đến quyền được học tập, hoạt động chính trị, tự do cá nhân. Và đây cũng chính là những quyền cơ bản, đặc trưng nhất của con người cần được bảo đảm để phát triển hoàn thiện theo đúng nghĩa CON NGƯỜI.

2. Nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở nước ta từ khi đổi mới đến nay

Mặc dù trong bối cảnh cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, các quyền con người của nhân dân Việt Nam vẫn được nhà nước nỗ lực bảo đảm. Tuy nhiên, do những khó khăn trầm trọng của nền kinh tế... mức độ bảo đảm các quyền đó trên thực tế có xu hướng ngày càng giảm sút. Một số quyền kinh tế, xã hội cơ bản thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN, cụ thể như các quyền học tập và chăm sóc y tế miễn phí... đôi khi chỉ tồn tại một cách hình thức.

Việc bảo đảm các quyền con người ở Việt Nam từ khi đổi mới hiện nay, phải đề cập đến hai phương diện: Đảm bảo các quyền dân sự chính trị và bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá.

Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở nước ta từ khi đổi mới đến nay.

Quyền dân sự, chính trị là một trong hai nhóm quyền cơ bản của con người, là nội dung của một trong hai điều ước quốc tế quan trọng nhất về nhân quyền do Đại hội đồng liên hợp quốc thông qua năm 1966 (công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị). Tiêu biểu cho các quyền dân sự chính trị là các quyền sở hữu; quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh sự, nhân phẩm; quyền bầu cử, ứng cử; quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền hội họp, lập hội...

Bảo đảm các quyền dân sự chính trị ở nước ta từ khi đổi mới đến nay đó là quyền: Bình đẳng trước pháp luật của công dân; quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm của con người; Bảo đam một số quyền chính trị dân sự khác cụ thể quyền tự do ngôn luận; quyền tự do hội họp, lập hội; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá ở nước ta từ khi đổi mới đến nay.

Cùng với các quyền dân sự, chính trị, quyền kinh tế, văn hoá, xã hội là một trong hai nhóm quyền cơ bản của con người, là nội dung của một trong hai điều ước quốc tế quan trọng nhất về nhân quyền do Đại hội đồng liên hợp quốc thông qua năm 1966. Đây là một tập hợp các quyền nhằm bảo đảm cho các cá nhân được hưởng thụ những điều kiện sống về vật chất và tinh thần thích đáng và bình đẳng. Trên cơ sở mức độ phát triển về kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.

Bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá ở nước ta từ khi đổi mới đến nay bao gồm một số quyền tiêu biểu: Quyền làm việc; quyền được tiếp cận với giáo dục; quyền được chăm sóc y tế; quyền được bảo đảm xã hội...

Cũng từ quá trình nghiên cứu kể trên, có thể thấy rằng nhân quyền và việc bảo đảm nhân quyền không hề là một điều gì xa lạ ở Việt Nam. Hầu hết các quyền con người được quốc tế thừa nhận và thực hiện từ khi các nhà mới giành độc lập. Tuy nhiên, từ khi đổi mới đến nay, đã có những bước phát triển mới quan trọng trên lĩnh vực này mà nguyên nhân chủ yếu là do sự phát triển về kinh tế, xã hội và sự chuyển biến nhận thức cũng như cách tiếp cận trong việc bảo đảm các quyền con người. Đặc biệt là các quyền con người về dân sự và kinh tế, xã hội, văn hoá. Xét chung, sự phát triển trong việc bảo đảm các quyền con người ở nước ta từ khi đổi mới đến nay thể hiện rõ nét sự điều chỉnh về mặt nhận thức cũng như biện pháp bảo đảm nhân quyền của nhà nước Việt Nam trong thời kỳ mới, với cách thức hợp lý hơn, kỹ thuật hài hoà giữa truyền thống nhân đạo, nhân văn của dân tộc, các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, căn cứ vào tình hình thực tiễn và quan điểm mở rộng dân chủ, Đảng ta đã đưa ra phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. 

“Dân biết” là Nhân dân hiểu và nắm rõ được chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật liên quan đến cuộc sống Nhân dân, vận mệnh đất nước, dân tộc. Nhân dân nắm, biết để bàn bạc, đóng góp ý kiến, hoạch định, góp phần bảo đảm khi được ban hành, thực hiện trong đời sống, đem lại kết quả tốt. Nhân dân biết, nắm rõ, hiểu được chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, tạo cơ sở để thống nhất, đồng thuận, đồng lòng, đoàn kết tổ chức, thực hiện đạt kết quả cao trong cuộc sống. Nhân dân hiểu rõ mục đích cuối của chủ trương, chính sách, pháp luật là phục vụ lợi ích của chính Nhân dân, thành quả của chủ trương, chính sách, pháp luật mang lại do Nhân dân thụ hưởng, tạo ra xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân. Để Nhân dân “biết” phải sử dụng hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục.

 ”Dân bàn” là Nhân dân được thảo luận, bàn bạc, ý kiến, góp ý với Đảng và Nhà nước, để việc hoạch định, thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật được thực hiện một cách chính xác, phù hợp, hiệu quả. Nhân dân bàn bạc, thống nhất cách thức, biện pháp tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả vào thực tiễn công việc, mang lại lợi ích cho Nhân dân, đất nước. Khi Nhân dân góp ý kiến đúng, xác đáng phải trân trọng, tiếp thu, hoàn thiện cho tốt hơn; khi Nhân dân góp ý kiến chưa xác đáng, chưa phù hợp phải giải thích, tuyên truyền, thuyết phục để Nhân dân hiểu, nắm rõ chủ trương, chính sách, pháp luật và những lợi ích đem lại. Để Nhân dân “bàn”phải có cơ chế, cách thức tổ chức phù hợp.

 ”Dân làm” là Nhân dân làm việc, thực hiện, hành động chủ trương, nghị chính sách, pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, đảm bảo hiệu quả. Nhân dân thực hiện tinh thần làm chủ, vai trò chủ thể thực hiện, triển khai hoạt động, công việc với cách thức, phương pháp, phương tiện, lực lượng thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật, việc làm vào đời sống đạt hiệu quả. Trong quá trình đó, cán bộ, đảng viên trước hết làm tốt vai trò là một công dân, với tinh thần là hạt nhân, đi đầu trong tổ chức, triển khai, thực hiện.

 ”Dân kiểm tra” là việc Nhân dân xem xét, đánh giá thực tế thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, việc làm, qua đó phát hiện những sai lệch, thiếu sót, đề xuất, ngăn chặn, xử lý, đưa ra biện pháp điều chỉnh kịp thời, bảo đảm thực hiện có hiệu quả, đạt mục tiêu đề ra. Mặt khác, qua kiểm tra để khuyến khích, biểu dương những việc làm tốt, mô hình hay. Nhân dân kiểm tra bằng cơ chế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện dân cử, nhất là dân chủ ở cơ sở. Để Nhân dân kiểm tra được cần có cơ chế cụ thể, cách thức tiến hành phù hợp.

 ”Dân giám sát” là Nhân dân theo dõi, xem xét, đánh giá quá trình thực hiện, kết quả thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án, công việc thực hiện. Nhân dân theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có đúng, có tuân thủ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật không. Giám sát bằng hình thức, phương pháp cụ thể, thường xuyên, theo nội dung công việc, trực tiếp, hoặc gián tiếp.

 ”Dân thụ hưởng” là Nhân dân được nhận, thụ hưởng thành quả, kết quả của quá trình phát triển về đời sống vật chất, tinh thần mà các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật mang lại sau quá trình tổ chức, thực hiện. Nhân dân thụ hưởng lợi ích, giá trị dẫn tới xã hội có trật tự, kỷ cương, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; đồng thời Nhân dân thấy được mục đích, động lực thực sự, cuối cùng của chủ trương, chính sách, pháp luật mà Đảng, Nhà nước đề ra và tổ chức thực hiện đều vì con người, vì Nhân dân, lan toả giá trị tiến bộ, nhân văn, phẩm giá con người, bản chất chất của chế độ xã hội.

Như vậy, “biết”, “bàn”, “làm”, “kiểm tra”, “giám sát”, “thụ hưởng” trong nội dung phương châm là quá trình tiếp nối biện chứng, có quan hệ chặt chẽ, chuyển hoá với nhau, gắn liền với vai trò chủ thể là Nhân dân, đảm bảo quyền làm chủ của Nhân dân. Đây không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để khơi dậy sức mạnh và nguồn lực Nhân dân trong quá trình hiện thực hóa chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống. Đó cũng chính là động lực quan trọng để hiện thực hóa định hướng và tầm nhìn trong giai đoạn mới, hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc, đồng thời đó cũng là mục tiêu hướng tới của CNXH mà Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta lựa chọn, xây dựng, phát triển đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

3. Phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc bảo đảm phát triển các quyền cơ bản của con người ở nước ta trong điều kiện hiện nay

Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ mục tiêu và bản chất của chế độ và cũng là một trong những nội dung quan trọng của nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng; đồng thời trước xu thế dân chủ hóa, giao lưu và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, đòi hỏi quyền con người và các quyền tự do cơ bản của cá nhân, công dân phải được tôn trọng và tăng cường hơn nữa, trước yêu cầu đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong việc đảm bảo hiện thực hóa quyền con người cần có nhu cầu phương hướng sau đây:

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân.

Thấu hiểu quyền con người phải được bảo vệ bởi một nhà nước pháp quyền; một nhà nước hợp hiến, ngay sau khi cách mạng giành được thắng lợi, Hồ Chí Minh đã xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng là thành lập Chính phủ lâm thời và ban hành hiến pháp để bảo đảm quyền tự do dân chủ, hay nói cách khác là các quyền con người của Nhân dân ta.

Kế thừa, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta và trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, dù có cách thể hiện khác nhau, nhưng đều xác định: Nhà nước định ra các đạo luật quy định quyền con người, quyền công dân trong đó, bên cạnh các luật về kinh tế, nhà nước cần ưu tiên xây dựng các luật về quyền công dân.

Quyền con người được thể hiện thông qua quyền công dân. Tuy nhiên, không được đồng nhất quyền công dân với quyền con người. Về phương diện chủ thể, con người trong quyền con người bao gồm cả những cá nhân là công dân và không phải là công dân (nghĩa là không được hưởng các quyền của một công dân nhưng vẫn được hưởng các quyền của một con người). Mặt khác, quyền công dân được quan niệm là quyền của các cá nhân, thì quyền con người lại được quan niệm là quyền của các tập thể người.

Ở nước ta, xuất phát từ nguyên tắc hiến định: Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được quy định trong hiến pháp và luật; các quyền được quy định trong luật một mặt là cụ thể hóa các quyền trong hiến pháp mặt khác phát triển và bổ sung thêm những quyền mới. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân đòi hỏi phải tăng cường hoạt động lập pháp của quan hệ như là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người. Vì không có pháp luật thì không có quyền con người và hoạt động lập pháp chính là tiền đề, xuất phát điểm cho toàn bộ hoạt động bảo vệ nhân quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và tạo căn cứ pháp lý cho hoạt động tự bảo vệ chính quyền của mỗi cá nhân, công dân.

Nhà nước pháp quyền, tự nó đã đòi hỏi yêu cầu cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ liên quan đến hoạt động của công dân, cũng như việc quy định quyền và nghĩa vụ của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước.

Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các quyền con người về dân dự, chính trị; các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá; quyền của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội như: quyền trẻ em; quyền phụ nữ; quyền của công dân cao tuổi...

Pháp luật quốc gia bảo đảm quyền con người phải cụ thể hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền con người; phải được xây dựng dựa trên các điều kiện cụ thể, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá và truyền thống lịch sử của dân tộc.

Các quy phạm pháp luật quyền về quyền con người phải phù hợp với tiêu chuẩn chung của quốc tế, nhất là các quy định quân sự mang tính nhân văn và tiến bộ mà Việt Nam đã tham gia.

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền con người phải dựa trên những đặc tính của quyền con người và xuất phát từ bản chất của mỗi loại quyền; theo đó các quyền con người về dân sự, chính trị thể hiện mức độ của tự do, dân chủ của cá nhân, công dân trong một nhà nước cần phải ưu tiên vì đó là các quyền có thẻ thực hiện được ngay, và ít phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội như các quy định bảo đảm thực hiện quyền bầu cử, ứng cử; tự do ngôn luận; tự do báo chí, tự do tôn giáo và tín ngưỡng; tự do hội họp; lập hội, biểu tình; quyền không bị tra tấn, bắt giữ, xét xử oan sai; quyền tôn trọng danh dự, nhân phẩm, quyền bí mật đời tư... Trong khi đó, các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá như quyền có việc làm, nhà ở, chăm sức khoẻ, bảo hiểm xã hội, quyền được vui chơi giải trí... thì lại đòi hỏi thực hiện dần dần vì mức độ thực hiện nó phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội cụ thể của mỗi quốc gia ở mọi giai đoạn.

Bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, thực hiện cho được Điều 57 Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”.

Bảo vệ quyền lợi người lao động, liên quan đến củng cố tổ chức công đoàn, cần hoàn thiện pháp luật về công đoàn, bảo đảm tổ chức công đoàn, cần hoàn thiện pháp luật về công đoàn, bảo đảm tổ chức cong đoàn thật sự trở thành chỗ dựa vững chắc của người lao động; đồng thời trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền, đòi hỏi phải từng bước hoàn thiện pháp luật về bảo đảm an toàn xã hội, trong đó kể cả bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khoẻ của Nhân dân, quyền nhà ở, các quyền về giáo dục, quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp, và cả việc bảo đảm cho người dân hưởng thụ, tham gia vào đời sống văn hoá của dân tộc và hưởng thụ văn hoá, văn minh thế giới.

Trong Nhà nước pháp quyền không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân nói chung mà xuất phát từ đặc thù về thể chất, tâm lý, quyền lợi của trẻ em, phụ nữ, công dân cao tuổi cũng như những người bị khuyết tật... phải được coi là đối tượng được ưu tiên, trong đó nhà nước phải có nghĩa vụ, trách nhiệm trước tiên trong việc bảo vệ.

Yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này là không được có bất kỳ phân biệt đối xử nào trong các quy định của pháp luật, quyền lợi của họ phải được bảo đảm trên tài sản.

Như vậy, xây dựng và hoàn thiện pháp luật là tiền đề quan trọng nhất để quyền con người được bảo đảm thực hiện. Chế độ nào không có quy định về quyền con người, quyền công dân trong văn bản luật, chưa nói có đạo luật riêng vê quyền con người thì khó có thể coi đó là một chế độ nhà nước dân chủ, chế độ vì quyền và lợi ích của cá nhân, công dân, con người đang sống và làm việc và cũng khó có thể coi và sếp vào hàng chế độ xã hội đã đạt đến trình độ dân chủ, văn minh, tiến bộ, con người được giải phóng có khả năng làm chủ xã hội, làm chủ nhà nước và làm chủ bản thân.

Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ quan tư pháp là cơ quan xét xử của nhu cầu Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có: toà án tối cao, các toà án phúc thẩm... Trong đó toà án có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chế độ nhà nước, chế độ xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là bảo vệ quyền con người.

Phương châm của Hồ Chí Minh đối với công tác xét xử của Hồ Chí Minh đối với công tác xét xử của toàn án là: “Xét xử đúng là tốt nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn”.

Vận dụng tư tưởng này của Hồ Chí Minh bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp trước hết không được làm con người vô tội. Người phạm tội phải chịu hình phạt tương ứng. Nhưng mục đích của hình phạt không phải chỉ là trừng trị mà đào tạo, cải tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm phải là mục đích ưu tiên hàng đầu. Đây là yêu cầu rất cơ bản để đảm bảo quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN.

Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi xây dựng một đội ngũ cán bộ tư pháp, tận tâm có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ; đồng thời hoàn thiện kể cả việc tổ chức với một cơ chế giám sát, chỉ đạo điều hành chặt chẽ từ phía Đảng, cơ quan Nhà nước, đoàn thể, Nhân dân và rất cần thiết.

Trước hết là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng không phải là can thiệp vào hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, mà bảo đảm sự lãnh đạo chỉ đạo bằng đường lối, chủ trương lớn ở tầm vĩ mô, về xây dựng tổ chức, bộ máy, về công tác cán bộ...

Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với cơ quan tư pháp.

Tăng cường sự giám sát của đoàn thể quần chúng; các tổ chức chính trị xã hội đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm sự tham gia trong lĩnh vực đấu tranh phát giác tội phạm và tham gia hoạt động xét xử. Phát giác và đấu tranh với những phần từ thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ tư pháp, xâm phạm đến lợi ích của Nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng theo hướng xã hội dân sự trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, và vì dân.

Và cuối cùng, nhưng chiếm vị trí quan trọng là nâng cao vị trí, vai trò của luật sự trong hoạt động tư pháp. Luật sư phải là người đại diện thật sự cho thân chủ. Sự tham gia của luật sư là để giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình tiến hành tố tụng, nhanh chóng làm sáng tỏ bản chất thật sự của vụ án, tránh và giảm thiểu đến mức thấp nhất sự oan sai; không vô tư, khách quan trong hoạt động tố tụng.

Quyền con người phải được bảo đảm bằng pháp luật vì nghĩ cho cùng vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Pháp luật phải bảo vệ quyền làm người, quyền sống ở đời. Pháp luật phải tạo nên hành lang rộng rãi, an toàn, văn minh cho pháp quyền làm người được thể hiện./.

Nguyễn Văn Minh, Trung đội B3D7 - Học viện Chính trị Công an nhân dân