Nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trong phát triển kinh tế-xã hội

Ngày 24/3, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp nhà nước với chủ đề "Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước trong phát triển kinh tế-xã hội".
nlntv-tt3-1648090242223-1648093859935-1648107277.jpg
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh: TRẦN HẢI.

Hội nghị được truyền trực tuyến tới điểm cầu các địa phương trên cả nước. Cùng dự có các Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái và Lê Văn Thành.

Phát biểu ý kiến khai mạc hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, Hội nghị của chúng ta hôm nay diễn ra trong bối cảnh đất nước đang thực hiện Chương trình phục hồi kinh tế theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ. Chúng ta đã và đang thực hiện hiệu quả phương châm “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, tạo nền tảng phục hồi nhanh, phát triển bền vững kinh tế-xã hội.

nlntv-tt1-1648090221484-1648107381.jpg
Thủ tướng Phạm Minh Chính bắt tay đại diện các doanh nghiệp nhà nước. Ảnh: TRẦN HẢI

Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước được Đảng, Nhà nước rất quan tâm và được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cấp, các ngành trong các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, của các địa phương và của doanh nghiệp Nhà nước. Chúng ta xác định doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.

Tại hội nghị này, Thủ tướng nêu một số vấn đề để thảo luận, làm rõ như sau:

Vì sao các doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được vai trò nổi bật trong việc dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, hướng dẫn, thu hút, thúc đẩy các thành phần khác phát triển. Tại sao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp Nhà nước còn thấp so với nguồn lực đang nắm giữ? Tại sao lại có tình trạng như vậy, nguyên nhân là gì? Do cơ chế chính sách hay tổ chức thực hiện chưa nghiêm, chưa tốt? Phải chăng là do các doanh nghiệp chưa chú trọng đầu tư phát triển ngành nghề chính của mình?

Vai trò quản lý nhà nước của các cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước (Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, các bộ ngành, địa phương) đã tốt chưa, vướng mắc những gì? Mô hình Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cần phải như thế nào để phát huy được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước ?

nlntv-tt5-1648090001706-1648093883530-1648108066.jpg
 Toàn cảnh hội nghị.

Tại sao công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước lại không đạt kế hoạch, vướng mắc vấn đề gì, nên thoái vốn ở những loại hình doanh nghiệp nào? Xác định giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế quyền thuê đất, giá trị thương hiệu của doanh nghiệp… đã đầy đủ chưa, chặt chẽ chưa? Vì sao thời gian qua làm chậm và vẫn còn xảy ra nhiều vi phạm liên quan đến lĩnh vực này?

Tại sao công tác quản trị doanh nghiệp chậm được đổi mới, chưa theo kịp với quy mô tài sản doanh nghiệp quản lý, thu hút lao động chất lượng cao còn hạn chế? Thực tế cho thấy, cùng một chủ trương, cơ chế, chính sách nhưng có nơi thực hiện tốt, có nơi chậm trễ, làm mãi không xong, đùn đẩy trách nhiệm... Vậy nguyên nhân là gì, có phải do chính người đứng đầu tổ chức đó hay không? Chúng ta phải có quyết tâm cao, nỗ lực phải lớn, đổi mới tư duy, tự lực, tự cường, ngày đêm trăn trở để phát triển.

Tại sao điểm yếu của các doanh nghiệp nhà nước là chưa chú trọng đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đổi mới sáng tạo?

Mô hình tổ chức và phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng trong doanh nghiệp nhà nước như thế nào, nhất là ở những doanh nghiệp đã cổ phần hóa nhằm phát huy vai trò của tổ chức Đảng tại các doanh nghiệp này?

Thủ tướng cũng lưu ý thêm: Trong bối cảnh quốc tế, trong nước với nhiều biến động khó lường, đại dịch Covid-19 chưa thể kết thúc một sớm, một chiều, tranh chấp thương mại giữa các nước lớn, xung đột địa chính trị, việc thực hiện các cam kết của các Hiệp định FTA thế hệ mới, sự phát triển nhanh của CMCN 4.0, những cam kết bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu … tác động nhiều mặt đến năng lực sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh và sự phát triển bền vững, sống còn của cộng đồng doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Chúng ta cần bàn, đưa ra các kế hoạch, nhiệm vụ, giải pháp hết sức cụ thể cho từng bộ, ngành và địa phương, từng tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước để có nhận thức đúng đắn, giải pháp phù hợp và hành động quyết liệt, hiệu quả hơn.

Theo chương trình hội nghị đề ra, sau báo cáo tổng kết của các bộ, cơ quan, hội nghị chúng ta sẽ thảo luận, bàn kỹ, làm rõ thêm, bổ sung về các vấn đề trọng tâm, các nhiệm vụ, giải pháp cho thời gian tới. Để được nghe nhiều ý kiến, Thủ tướng đề nghị các đại biểu nói thẳng, nói thật về các khó khăn, vướng mắc và nêu các giải pháp, đi vào trọng tâm vấn đề; lãnh đạo các ban, bộ, ngành và địa phương trao đổi, làm rõ thêm những vấn đề đặt ra, nhất là kiến nghị sửa đổi thể chế, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền. 

Ngay sau hội nghị này, chúng ta sẽ ban hành Nghị quyết của Chính phủ với các nhiệm vụ và giải pháp để thúc đẩy đổi mới, nâng cao hiệu quả nhằm huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước trong phát triển kinh tế-xã hội. Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ tiếp thu tối đa ý kiến của các đại biểu để hoàn thiện và trình ban hành ngay sau hội nghị này.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến đầu năm 2021, Việt Nam còn khoảng gần 500 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và gần 200 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (trong số 320 doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước). Doanh nghiệp  do Nhà nước nắm giữ 100% vốn đang tập trung hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực: (i) Quốc phòng an ninh (chiếm khoảng 17%) ((ii) Nông, lâm nghiệp và công trình thủy lợi (40%); (iii) Hoạt động xổ số (13%); (iv) Hoạt động công ích (đô thị, chiếu sáng, cấp thoát nước…) (14%); (iv) Hoạt động trong các ngành, lĩnh vực khác kết hợp mục tiêu sản xuất kinh doanh (16%). Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn chủ yếu hoạt động trong các ngành: Nông lâm, hoạt động công ích (đô thị, chiếu sáng, cấp thoát nước…), kết cấu hạ tầng cảng biển, giao thông và sản xuất kinh doanh (bất động sản, du lịch, vật liệu xây dựng...).

Hiện nay, nếu loại trừ các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh và nông lâm nghiệp thì chỉ còn 94 doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn gồm: 9 tập đoàn kinh tế; 67 tổng công ty nhà nước, 18 công ty hoạt động theo mô hình nhóm công ty mẹ-công ty con. Tuy chỉ chiếm hơn 10% về số lượng doanh nghiệp nhà nước nhưng khối công ty mẹ Tập đoàn-Tổng công ty (doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn) lại nắm giữ khoảng 90% tổng tài sản, 88% tổng doanh thu và 86% lợi nhuận trước thuế của toàn bộ doanh nghiệp nhà nước trên phạm vi toàn quốc.