Vai trò của phụ nữ Việt Nam trong đời sống xã hội
Phụ nữ Việt Nam đã vượt qua mọi nghịch cảnh, rào cản, định kiến, khó khăn, trở ngại, có nhiều đóng góp to lớn xây dựng và bảo vệ vững chắc non sông gấm vóc Việt Nam và giữ một vai trò, vị trí quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong việc tham gia quản lý nhà nước.
Vai trò quan trọng này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi nhận. Người đã dành nhiều lời tâm huyết dành tặng phụ nữ Việt Nam: “Phụ nữ ta chẳng tầm thường; đánh đông, dẹp bắc làm gương để đời”; “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà trở nên tốt đẹp, rực rỡ”.
Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người không quên căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm, chăm sóc phụ nữ “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”(1).
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò của phụ nữ trong xã hội, đồng thời nâng cao vai trò này của phụ nữ trong tham gia quản lý nhà nước là một trong những nhiệm vụ, mục tiêu quan trọng của Cách mạng Việt Nam thời kỳ hội nhập, nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan, quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế, các tầng lớp phụ nữ Việt Nam luôn tỏ rõ năng lực, phẩm chất, nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết phát huy tiềm năng, sức sáng tạo trong học tập, lao động sản xuất và công tác, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Có thể thấy, phụ nữ Việt Nam hiện đại đã phát huy truyền thống trong học tập, lao động và công tác, đạt nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại..., trở thành nhân tố đặc biệt quan trọng, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; nâng cao vai trò, vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Phụ nữ Việt Nam là lãnh đạo, quản lý đã tạo ra được những nét đặc trưng riêng đó là: năng động, trí tuệ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn và khả năng nghiên cứu khoa học, có trách nhiệm trong tổ chức cuộc sống gia đình, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng,… Với nét đặc trưng đó, các chị em đã góp phần tạo nên một đặc trưng văn hoá của Phụ nữ Việt Nam riêng có.
Hệ thống chính sách, pháp luật góp phần củng cố vai trò của phụ nữ Việt Nam
Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm sâu sắc đến chính sách đối với công tác nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, được thể hiện xuyên suốt trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Nhà nước đã ký kết tham gia Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (Công ước CEDAW); từng bước luật hóa trong các văn bản pháp luật và các chính sách có liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ.
Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 16/5/1994 xác định tiếp tục quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ bằng giải pháp xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng lao động nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng; Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị nhấn mạnh, xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng bằng nhiều chỉ tiêu cụ thể về cơ cấu nữ giới trong hệ thống chính trị.
Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta cũng sớm ghi nhận vai trò của phụ nữ trong trong các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao như: Hiến pháp; Luật Bình đẳng giới. Trong đó, nội dung quy phạm đã đảm bảo điều kiện cho phụ nữ tham gia quản lý nhà nước, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của cơ quan hành chính các cấp trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia quản lý nhà nước. Hiến pháp năm 1946 đã đề cập: “…Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể Nhân dân Việt Nam” và, “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Những bản Hiến pháp tiếp theo (Hiến pháp năm 1959; Hiến pháp năm 1980; Hiến pháp năm 1992; Hiến pháp năm 2013), đều có các Điều, khoản quy định chi tiết, cụ thể về quyền của phụ nữ; về “quyền ngang nhau” giữa nam và nữ ở tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội và gia đình. “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội”(2); “nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia các hoạt động xã hội”(3).
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh chủ trương: Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 và tầm nhìn tới năm 2045. Tập trung thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới bình đẳng tham gia đóng góp trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững của đất nước, cũng như thụ hưởng thành quả của sự phát triển.
Với những chủ trương và hệ thống cơ chế, chính sách đó, Việt Nam đã tạo được môi trường để phụ nữ ngày càng khẳng định vị thế và có nhiều cơ hội đóng góp cho xã hội, cho Nhân dân. Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao những nỗ lực thực hiện bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ tại Việt Nam. Như vậy, có thể khẳng định, từ khi ra đời cho đến nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia tích cực vào các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội, trong đó đặc biệt hướng đến tăng cường vai trò của phụ nữ trong việc tham gia quản lý nhà nước, tiếp nối truyền thống, đoàn kết, sáng tạo, hội nhập xây dựng đất nước.
Phụ nữ tham gia vào quản lý nhà nước góp phần xoá bỏ khoảng cách giới
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhiều chủ trương, chính sách phát triển đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở đã phát huy mạnh mẽ vai trò của phụ nữ trong bối cảnh mới. Đội ngũ cán bộ nữ đã có bước trưởng thành rõ rệt. Số lượng và chất lượng cán bộ nữ phát triển không ngừng. Trong các cấp ủy đảng và ở các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến cơ sở đều có cán bộ nữ tham gia trong nhiều vai trò khác nhau.
Có thể thấy, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào quản lý nhà nước ngày càng tăng đã khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc từng bước xóa bỏ khoảng cách giới trong hệ thống chính trị tại Việt Nam. Kết quả này đã được Nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận.
Tỷ lệ nữ cán bộ giữ các chức danh quan trọng trong bộ máy nhà nước ở Trung ương: bộ trưởng và tương đương (8%), thứ trưởng và tương đương (7,7%); ở địa phương: Tỷ lệ nữ giữ chức danh chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp (tỉnh: 3,12%, huyện: 3,62%, xã: 3,42%), giữ chức danh phó chủ tịch ủy ban nhân các cấp (tỉnh: 16,08%; huyện: 14,48%, xã 8,44%).
Số lượng nữ đại biểu Quốc hội chiếm tỷ lệ cao, đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á (nhiệm kỳ khóa XIII đạt 24,4%; nhiệm kỳ khóa XIV đạt 26,8%; nhiệm kỳ khóa XV đạt 30.26%) và đứng thứ 51 trên thế giới, thứ 4 ở châu Á và đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á về tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc hội.
Đặc biệt, tại Đại hội XIII, trong số Ủy viên Trung ương Đảng chính thức được bầu có 18 đại biểu nữ, tăng 01 đại biểu so với nhiệm kỳ khóa XII. Trong 63 bí thư tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2020 - 2025 có tới 09 người là nữ thuộc các tỉnh: Lạng Sơn, Lai Châu, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Ninh Bình, Quảng Ngãi và An Giang. Đây là số lượng nữ bí thư tỉnh ủy nhiều nhất từ trước đến nay.
Từ kết quả trên, chúng ta thấy rõ ràng về mặt chủ trương, chính sách, Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia tích cực vào các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cho phụ nữ tham gia đầy đủ, tích cực vào việc quản lý nhà nước.
Nhận diện một số rào cản khi phụ nữ tham gia vào quản lý nhà nước
Thứ nhất, trong bối cảnh hiện nay, phụ nữ Việt Nam đã tham gia tích cực vào công tác lãnh đạo, quản lý và bước đầu được ghi nhận, đánh giá cao, tuy nhiên, so với tiềm năng và nguồn lực cán bộ nữ trong hệ thống chính trị thì tỷ lệ cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ vẫn còn thấp so với đội ngũ lao động nữ và so với yêu cầu.
Thứ hai, trình độ phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng, miền trong cả nước nên vẫn chưa có bình đẳng thực sự trong thụ hưởng giáo dục; một bộ phận phụ nữ sống ở nông thôn, phụ nữ là người dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều thiệt thòi do thiếu các điều kiện để tiếp cận các chính sách và thụ hưởng thành quả do sự phát triển kinh tế - xã hội mang lại. Vì vậy, rất cần có những chính sách để phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, từ đó bảo đảm những điều kiện thuận lợi hơn để người phụ nữ gia tăng cơ hội tham gia các hoạt động xã hội.
Thứ ba, định kiến giới đối với phụ nữ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý vẫn còn khắt khe. Mặc dù sự định kiến giới theo quan niệm truyền thống đã giảm bớt, chuyển biến theo chiều hướng ngày càng tích cực hơn, tuy nhiên, trong nhận thức của nhiều nhóm xã hội về vai trò, vị thế chính trị của phụ nữ vẫn còn có định kiến và khắt khe hơn nhiều so với nam giới. Chính điều này là một trong những nguyên nhân làm hạn chế khả năng và sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực hoạt động chính trị - xã hội.
Phát huy phẩm chất đạo đức cao quý của phụ nữ Việt Nam để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
Để khắc phục những bất cập trong việc phát huy vai trò tham gia quản lý nhà nước, tiếp nối truyền thống, đoàn kết, sáng tạo, hội nhập xây dựng đất nước, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:
Một là, tiếp tục thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, góp phần đạt được các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030, nhằm tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới bình đẳng trong tham gia, thụ hưởng thành quả trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Hai là, cần chú trọng hơn nữa công tác quy hoạch nguồn cán bộ nữ làm công tác lãnh đạo, quản lý. Cần xác định, việc tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý là trách nhiệm và công việc quan trọng, thường xuyên của Đảng và Nhà nước, các ban, bộ, ngành, các địa phương, nhất là ở cấp cơ sở để tránh sự thiếu hụt về số lượng cán bộ nữ.
Ba là, công tác phụ nữ phải sát hợp với từng đối tượng, vùng, miền, phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của các tầng lớp phụ nữ vào sự phát triển của đất nước; đồng thời, phải chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt nhất vai trò người công dân, người lao động, người vợ, người mẹ,…
Bốn là, các cơ quan, tổ chức cần phân công cán bộ, bộ phận đầu mối theo dõi công tác cán bộ nữ. Hàng năm, tiến hành rà soát tình hình cán bộ, có thống kê số liệu tách biệt giới; xây dựng kế hoạch tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, đề bạt cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước.
Năm là, bản thân phụ nữ phải tự nỗ lực học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ, khắc phục khó khăn để vươn lên và rèn luyện các kỹ năng cần thiết khi tham gia quản lý nhà nước.
Trước những đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, phụ nữ Việt Nam hiện đại khi nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ tích cực của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và cùng với những nỗ lực của bản thân sẽ có điều kiện phát huy năng lực, tự tin tham gia và thực hiện tốt vai trò quan trọng của mình trên tất cả các lĩnh vực, từ đó có thêm nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước, khẳng định hình ảnh, phẩm chất đạo đức cao quý “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”./.
----------------
Ghi chú:
1. Hồ Chí Minh: Sđd, t.15, tr.617
2. Điều 63, Hiến pháp năm 1992.
3. Khoản 1, Điều 11, Luật Bình đẳng giới.
Tài liệu tham khảo:
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tập 2. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011.
3. Trần Thị Minh Thi, Bình đẳng giới trong chính trị từ chiều cạnh thể chế, văn hóa và hội nhập quốc tế. H. NXB Khoa học xã hội, 2017.
TS, Thượng tá Nguyễn Phước Nga, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương
KTV Nguyễn Thị Hồng Nhung, Ủy ban Kiểm tra Trung ương
TS, Thượng tá Nguyễn Phước Nga, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương KTV Nguyễn Thị Hồng Nhung, Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Link nội dung: https://nguonluc.com.vn/vai-tro-cua-phu-nu-viet-nam-trong-viec-tham-gia-quan-ly-nha-nuoc-a7296.html