Dưới sự lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, QĐND Việt Nam luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đã cùng với nhân dân làm nên những chiến thắng huy hoàng, xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, với 34 chiến sĩ, trang bị vũ khí tuy còn rất thô sơ nhưng đã làm nên chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần, mở ra truyền thống “quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội. Chưa đầy một năm sau, QĐND đã góp phần quan trọng cùng toàn dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại, giành độc lập dân tộc, tạo tiền đề cho sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Quân đội ta trưởng thành nhanh chóng, phát triển cả về lực lượng, vũ khí, trang bị và đặc biệt là kinh nghiệm tác chiến. Nhờ đó, trong thế trận chiến tranh nhân dân, Quân đội ta đã tổ chức nhiều chiến dịch với quy mô ngày càng lớn, nhất là cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954, giành thắng lợi quyết định trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân đội ta đã xây dựng được các binh chủng, quân chủng với vũ khí trang bị, phương tiện kỹ thuật tương đối hiện đại.
Đặc biệt, đến giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, đã thành lập các quân đoàn chủ lực cơ động. Nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược đã phát triển đến đỉnh cao, nhất là nghệ thuật tác chiến chiến dịch, chiến lược và sự chỉ đạo phối hợp tác chiến giữa các chiến trường. Ở miền Bắc, Quân đội đã tham gia cùng toàn dân xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc “hậu phương lớn” miền Bắc, chi viện cho “tiền tuyến lớn” miền Nam.
Ở miền Nam, quân đội đã phát huy vai trò nòng cốt trong đấu tranh quân sự, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh trên mặt trận ngoại giao; thực hiện phương thức tác chiến của các binh đoàn chủ lực kết hợp với chiến tranh nhân dân địa phương; tạo thành sức mạnh tổng hợp làm phá sản các chiến lược: “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”, kết thúc hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Bước vào thời kỳ hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Quân đội tiếp tục xung kích, đi đầu trong khắc phục hậu quả chiến tranh, tham gia phát triển kinh tế-xã hội; đấu tranh với âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; cùng toàn dân tộc tiến hành thắng lợi các cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả.
Phát huy truyền thống, bản chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội kế tiếp nhau luôn thực hiện tốt chức năng của đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".
Trong giai đoạn mới, để cụ thể hóa chủ trương xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc đến năm 2030 xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, trong đó lấy xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị và chuẩn mực "Bộ đội Cụ Hồ" làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh, trình độ sẵn sàng chiến đấu.
Toàn quân đã tích cực triển khai thực hiện hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị, bước đầu đạt được những kết quả hết sức quan trọng, như: Thực hiện điều chỉnh tổ chức biên chế, giảm quân số ở các cơ quan chiến dịch, chiến lược, ưu tiên quân số cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, tuyến biên giới, hải đảo; huy động tiềm lực quốc phòng, đầu tư, nâng cao sức mạnh cho các quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sửa chữa quốc phòng; điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế của một số học viện, nhà trường Quân đội...
Những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo; cạnh tranh chiến lược, xung đột thương mại giữa các nước lớn, các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống diễn ra gay gắt hơn; suy thoái kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định, phát triển của các quốc gia, dân tộc. Cộng đồng ASEAN tiếp tục bị tác động, chi phối và đối mặt với những thách thức mới. Biển Đông và một số địa bàn chiến lược vẫn tiềm ẩn nhân tố gây mất ổn định và diễn biến ngày càng phức tạp, đe dọa hòa bình, ổn định của khu vực và môi trường đầu tư.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ tới mọi mặt đời sống, kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh. Sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 35 năm qua, thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay... Tất cả những yếu tố đó đều tác động đến quá trình xây dựng QĐND Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, theo đó cần nhận thức và giải quyết thành công các vấn đề đặt ra hiện nay, đó là:
Một là, kiên định nguyên tắc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, giữ vững bản chất cách mạng, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội.
Đây là nội dung có tầm quan trọng chiến lược trong toàn bộ đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân của Đảng. Trước yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn cách mạng mới, nhất là trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, thực hiện “phi chính trị hóa” Quân đội, việc giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội, là một nguyên tắc bất di, bất dịch, quyết định đến mọi thắng lợi của Quân đội trong suốt 77 năm qua.
Để đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và mọi đảng viên trong Quân đội phải chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao trách nhiệm trong tự phê bình và phê bình, tăng cường đoàn kết, nhất trí trong tập thể cấp ủy, người chỉ huy và chính ủy, chính trị viên... Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa kịp thời mọi biểu hiện sai phạm, tham nhũng, lãng phí, xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", trong nội bộ.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động công tác đảng, công tác chính trị gắn với triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về "Phát huy phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ", kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới".
Hai là, thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là một trong những đột phá chiến lược, có ý nghĩa quyết định, bảo đảm cho Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Việc xây dựng nguồn nhân lực cần chú trọng cả về số lượng và chất lượng theo lộ trình hiện đại hóa vũ khí, trang bị, kỹ thuật của các quân chủng, binh chủng, lực lượng.
Tập trung phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học quân sự, các chuyên gia đầu ngành, giảng viên ở các học viện, nhà trường Quân đội; quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ quân sự, chính trị chất lượng cao, xây dựng đội ngũ cán bộ hậu cần, kỹ thuật có trình độ, năng lực chuyên môn sâu. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập, đào tạo sát với yêu cầu nhiệm vụ, kế thừa nghệ thuật quân sự độc đáo của ông cha ta trong đánh giặc giữ nước và tinh hoa nghệ thuật quân sự thế giới.
Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ mô phỏng, trí tuệ nhân tạo, các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong huấn luyện bộ đội. Có chính sách phù hợp để thu hút, phát triển và trọng dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Ba là, tiếp tục triển khai hiệu quả đột phá về tổ chức và trang bị. Đây là những nội dung rất quan trọng, quyết định đến sức mạnh sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi của Quân đội. Do đó, phải quán triệt sâu sắc quan điểm Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI.
Tích cực rà soát, điều chỉnh tổ chức Quân đội bảo đảm cơ cấu hợp lý, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao; coi trọng xây dựng lực lượng đặc thù, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tác chiến trong tình hình mới. Tiếp tục sắp xếp lại các nhà máy quốc phòng, học viện, nhà trường Quân đội phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Chú trọng đón đầu công nghệ mới gắn với đẩy mạnh hợp tác quốc tế về công nghiệp quốc phòng và chuyển giao công nghệ; đầu tư công nghệ cho các hoạt động nghiên cứu chế tạo, cải tiến vũ khí, khí tài, trang bị kỹ thuật hiện đại, nâng cao tính năng kỹ, chiến thuật của các loại vũ khí trang bị phù hợp điều kiện nền kinh tế đất nước và trong điều kiện tác chiến bằng vũ khí công nghệ cao.
Bốn là, xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đạt trình độ tiên tiến, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời gian tới, chúng ta phải tận dụng thành tựu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu xây dựng nền công nghiệp quốc phòng độc lập, tự chủ, có tiềm lực ngày càng mạnh, phù hợp với khả năng của nền kinh tế đất nước.
Công nghiệp quốc phòng phải được phát triển theo hướng gắn chặt với công nghiệp dân sinh, có cơ cấu hợp lý trong tổng thể nền công nghiệp quốc gia, ưu tiên hướng tới những công nghệ hiện đại, hiệu quả cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang nhân dân. Xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng theo hướng lưỡng dụng, đạt trình độ tiên tiến, hiện đại làm nòng cốt xây dựng các tập đoàn, tổ hợp công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho Quân đội từng bước được trang bị hiện đại, trước mắt tập trung xây dựng lực lượng hải quân, phòng không-không quân, trinh sát điện tử, tác chiến điện tử, trinh sát kỹ thuật, thông tin liên lạc tiến thẳng lên hiện đại.
Năm là, nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. Đây là một bộ phận quan trọng của ba trụ cột đối ngoại Việt Nam, nhằm quán triệt, cụ thể hóa đường lối đối ngoại của Đảng, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Thông qua công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng tiếp tục xây dựng lòng tin, nâng cao vị thế, uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế; đồng thời thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, kỹ thuật quân sự, chia sẻ kinh nghiệm tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, đào tạo cán bộ và đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống.
QĐND Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân hết sức quan tâm, chăm lo, dành cho những tình cảm đặc biệt. Phát huy truyền thống 77 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, cán bộ, chiến sĩ toàn quân nguyện tiếp tục nỗ lực phấn đấu, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng QĐND Việt Nam chính quy "tinh, gọn, mạnh, hiện đại" như lời phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Quân ủy Trung ương lần thứ 3, nhiệm kỳ 2020-2025.
Đại tướng PHAN VĂN GIANG,
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Link nội dung: https://nguonluc.com.vn/xay-dung-quan-doi-nhan-dan-viet-nam-tinh-gon-manh-tien-len-hien-dai-trong-thoi-ky-moi-a525.html