Theo quy định của luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2014 và Quyết định 3749 về việc chi hỗ trợ cho đoàn viên, người lao động khó khăn bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, các trường hợp người lao động, đoàn viên được hưởng trợ cấp sau quá trình nghỉ việc điều trị Covid-19 đều được nêu rõ trong các văn bản pháp luật.
Cụ thể, người lao động là F0 điều trị tại nhà khi khỏi bệnh cần đề nghị y tế phường, xã cấp giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội. Trước tiên, người lao động khi nhiễm Covid-19 cần liên hệ với trạm y tế xã, phường để khai báo và làm các thủ tục theo hướng dẫn.
Nếu trạm y tế xã, phường địa phương cấp giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội không đúng với quy định của Bảo hiểm xã hội, người lao động khi khỏi Covid-19 cần đề nghị được cấp lại theo đúng quy định.
Theo đại diện Bảo hiểm xã hội Hà Nội, cơ quan y tế đã có hướng dẫn của Bộ Y tế, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm phải được đưa lên hệ thống theo đúng quy định để bảo hiểm thanh toán cho người lao động.
Theo Luật Bảo hiểm Xã hội năm 2014, người lao động bị nhiễm Covid-19 phải nghỉ việc, nếu có xác nhận của cơ sở y tế sẽ được hưởng chế độ đau ốm. Điều 26 của Luật Bảo hiểm xã hội 2014 ghi rõ, người tham gia bảo hiểm xã hội dưới 15 năm sẽ được nghỉ 30 ngày, đủ 15 - dưới 30 năm được nghỉ 40 ngày và đóng bảo hiểm từ 15-30 năm sẽ được nghỉ 60 ngày, trong điều kiện bình thường.
Đối với công việc nặng nhọc, mức nghỉ sẽ cao hơn từ 40 đến 70 ngày tương ứng với số năm đóng bảo hiểm như trên. Luật cũng quy định, người lao động nghỉ việc do Covid-19 được hưởng 75% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.
Căn cứ Quyết định 222/QĐ-BHXH năm 2021, người lao động phải nộp cho doanh nghiệp bản chính giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH. Thời hạn nộp trong 45 ngày kể từ ngày trở lại làm việc. Nếu nộp muộn khiến doanh nghiệp chậm nộp cho cơ quan BHXH, phải giải trình lý do bằng văn bản.
Sau khi nhận hồ sơ từ người lao động, doanh nghiệp sẽ lập thêm Mẫu số 01B-HSB và gửi toàn bộ hồ sơ cho cơ quan BHXH trong 10 ngày làm việc.
Trong trường hợp người lao động vẫn còn ngày nghỉ phép năm thì thời gian nghỉ việc để điều trị Covid-19 có thể trừ vào ngày nghỉ phép năm. Do đó, trong những ngày này, người lao động vẫn được hưởng nguyên lương.
Theo khoản 1, điều 113 Bộ luật Lao động năm 2019, người lao động làm việc đủ 12 tháng cho một người sử dụng lao động thì được nghỉ hằng năm, hưởng nguyên lương theo hợp đồng lao động: 12 ngày làm việc đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường; 14 ngày làm việc đối với người lao động chưa thành niên, lao động là người khuyết tật, người làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; 16 ngày làm việc đối với người làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
Đối với hỗ trợ của công đoàn, theo Quyết định 3749 về việc chi hỗ trợ cho đoàn viên, người lao động khó khăn bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam đã chi hơn 6.000 tỷ đồng cho đoàn viên, người lao động khó khăn do nhiễm Covid-19.
Các F0 được hưởng hỗ trợ của công đoàn trong các trường hợp nhiễm Covid-19, không vi phạm phòng chống dịch.
Bệnh nhân Covid-19 điều trị ngoại trú từ 21 ngày trở lên hoặc điều trị nội trú tại các bệnh viện, cơ sở y tế thu dung điều trị F0 có giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền, được hỗ trợ tối đa 1,5 triệu đồng.
Bệnh nhân có triệu chứng nặng, điều trị nội trú trên 21 ngày tại các bệnh viện, cơ sở y tế thu dung điều trị F0 Covid-19, có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền, được hỗ trợ tối đa 3 triệu đồng.
Đặc biệt, trường hợp người lao động là đoàn viên tại các cơ quan, đơn vị có đóng kinh phí công đoàn, không may bị tử vong do nhiễm Covid-19, thân nhân được hỗ trợ tối đa 5 triệu đồng/trường hợp.
An Linh
Link nội dung: https://nguonluc.com.vn/f0-khoi-benh-can-lam-gi-de-duoc-huong-bao-hiem-ho-tro-tu-cong-doan-a2413.html