1. Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì ở thời đại hay xã hội nào thì nhân tố con người cũng luôn đóng vai trò quyết định, tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của nhân loại. Trong tiến trình lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định nhân tố con người giữ vị trí trung tâm của quá trình phát triển, do đó phát triển nguồn nhân lực để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Năm 1986 dân số nước ta là 59.872.000 người, năm 1997 là 76.709.000 người trong quãng thời gian này bình quân một năm dân số nước ta tăng hơn 1,5 triệu người mỗi năm. Lực lượng lao động từ 27.398.000 người (năm 1986) lên 36.994.000 (năm 1997)105. Năm 2000, dân số nước ta là 77.658.500 người, năm 2023, dân số Việt Nam đạt 100.300.000 người. Dân số tăng nhanh, nguồn nhân lực dồi dào, theo thông tin của Tổng cục Thống kê (GSO), tính chung năm 2023, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt 52,4 triệu người, ở khu vực thành thị là 19,5 triệu người, chiếm 37,3%; lực lượng lao động nữ đạt 24,5 triệu người, chiếm 46,7% lực lượng lao động của cả nước. Đến cuối năm 2023, cả nước vẫn còn 38 triệu lao động chưa qua đào tạo; lực lượng lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ ước tính là 14,1 triệu người, chiếm 27%; số người thiếu việc làm trong độ tuổi là 918,5 nghìn; tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2023 là 2,01%, tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn (tương ứng là 1,61% và 2,26%).
Quá trình tiến hành CNH, HĐH đất nước, nguồn nhân lực đòi hỏi phải được đào tạo, sử dụng một cách hiệu quả. Với lực lượng lao động dồi dào, đó là thế mạnh, là yếu tố cơ bản để tạo động lực phát triển nhanh. Tuy nhiên, nước ta với điểm xuất phát thấp, trình độ công nghệ lạc hậu, hạ tầng kém, vốn đâu tư ít… trong lúc đó nguồn lao động dư thừa, chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ lớn, hằng năm lại tăng với tốc độ nhanh sẽ gây sức ép lớn về việc làm. Trong bối cảnh Việt Nam, cơ cấu nguồn nhân lực đang phản ánh chất lượng nguồn lao động còn thấp, chiểm tỷ trọng lớn lực lượng lao động của một nền kinh tế dựa trên nông nghiệp lạc hậu.
Dân số nông thôn chiếm gần 75% dân số cả nước, nhưng mới chỉ có gần 50% lực lượng lao động được đào tạo, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp số lao động qua đào tạo chiếm tỷ trọng còn thấp. Lực lượng lao động có trình độ cao chủ yếu tập trung ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh trọng điểm. Năm 2023, lao động có việc làm đạt 51,3 triệu người, tăng 683,0 nghìn người (tương ứng tăng 1,35%) so với năm 2022. Tuy nhiên, số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động năm 2023 còn khoảng 906,6 nghìn người, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,98%.
Trong quá trình CNH, HĐH đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định nguồn lực con người là nhân tố hết sức quan trọng, tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”.
Quá trình CNH, HĐH gắn với lao động là nguồn lực cơ bản, có chất lượng với hàm lượng trí tuệ cao, đặc biệt trong bối cảnh khoa học công nghệ ngày càng phát triển. Trong bối cảnh hiện nay, từ kinh nghiệm phát triển của nhiều quóc gia cho thấy, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng, là động lực phát triển, nhân tố quyết định đến thành công hay thất bại của sự nghiệp CNH, HĐH. Để đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH trong bối cảnh hiện nay không thể bỏ qua nhân tố phát triển nguồn nhân lực. Do đó, Đảng ta xác định rất rõ rằng, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
2. Phát triển nguồn nhân lực theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay
Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH được thể hiện trên nhiều phương diện như: giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao thể chất của người lao động, giải quyết các chính sách về việc làm, thu nhập...
Từ sau Đại hội VIII, thực hiện chiến lược CNH, HĐH đất nước, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết trên nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến phát triển nguồn nhân lực. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000 đã xác định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Để phát triển nguồn nhân lực, Nghị quyết đã xác định điểm đột phá là lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Coi giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, là bước đột phá mang tính then chốt; là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; phát triển giáo dục, đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Bên cạnh đó, phát triển nguồn lực phải đảm bảo một cách toàn diện về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ…. Phát triển nguồn nhân lực phải theo theo chiến lược, kế hoạch; mọi chính sách kinh tế - xã hội phải gắn với xây dựng nguồn nhân lực; đảm bảo đáp ứng nguồn nhân lực cả về số lượng, mạnh về chất lượng.
Tại Đại hội IX (năm 2001) vấn đề này được tiếp tục khẳng định: Đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để phát triển nguồn nhân lực đảng ta khẳng định: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức”.
Lựa chọn giáo dục, đào tạo là bước đột phá trong phát triển nguồn nhân lực, Đại hội X của Đảng đã xác định giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu và xác định nhiệm vụ đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn hưng giáo dục Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Để đạt mục tiêu cơ bản “trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, tại Đại hội XI (2011) Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là khâu đột phá với tinh thần “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Để thực hiện chiến lược này, Đại hội Đảng lần thứ XI đưa ra những giải pháp gồm: xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam; đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt; xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam...
Đẩy mạnh CNH, HĐH, thực hiện các mục tiêu phát triển đến năm 2030, năm 2045 với mục tiêu đưa đất nước phát triển lên một tầm cao mới. Tại Đại hội Đảng XII, trong Báo cáo chính trị, Đảng ta tiếp tục khẳng định, phát triển nguồn nhân lực là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm 2016 - 2020 và mang tính đột phá chiến lược, là nhân tố quan trọng nhất tạo ra động lực đưa đất nước phát triển.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, quốc tế, trước tác động của sự phát triển khoa học và công nghệ và đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH, tại Đại hội XIII, Đảng ta đã đề ra những định hướng phát triển đất nước, trong đó vấn đề phát triển nguồn nhân lực được tiếp tục nhấn mạnh: Coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân; thực hiện phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Tại Đại hội này, Đảng đề ra chủ trương: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người”. Để thực hiện việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, Đảng ta cũng đã xác định hệ thống quan điểm, giải pháp mang tính cơ bản và lâu dài gồm:
Thứ nhất, lấy con người là trung tâm trở thành định hướng chiến lược, triết lý hành động xuyên suốt quá trình phát triển. Kế thừa các kỳ đại hội trước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nhiều quan điểm và giải pháp phát huy nhân tố con người, nhằm khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo, lòng tự hào dân tộc trong xây dựng và phát triển đất nước quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: Tất cả do con người, tất cả vì con người, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Đại hội XIII đã khái quát và đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể về xây dựng, phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước. Trong đó nhấn mạnh đến việc “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm phát triển bền vững”. Đề cao nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển là quan điểm nhất quán của Đảng. Về nội dung và mục tiêu phát triển nguồn nhân lực, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ yêu cầu, cần “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc”; thực hiện phương châm: “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế”.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH cần gắn với việc phát huy các giá trị văn hóa của con người Việt Nam. Ngày nay, đi cùng với quá trình phát triển kinh tế thì yếu tố văn hóa cũng được chú trọng nết sức, nhân tố văn hóa được coi là nền tảng, sức mạnh tạo thành các giá trị của nguồn nhân lực. Tại Đại hội XIII, Đảng ta nhấn mạnh việc phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, nhấn mạnh việc “xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người”. Đảng ta cũng đã chỉ ra các giải pháp phát huy giá trị văn hóa con người Việt Nam trong giai đoạn là: ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội; bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam; đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”.
Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là giải pháp quan trọng để phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định một cách nhất quán: giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, động lực then chốt để phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”. Đảng ta chủ trương học phải đi đôi với hành, giáo dục và đào tạo cần phải gắn liền với khoa học và công nghệ. Gắn giáo dục, đào tạo với khoa học và công nghệ là yêu cầu mới trong quan điểm phát triển nguồn nhân lực của Đảng. Điều này xuất phát từ thực trạng chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn nhiều hạn chế bắt nguồn từ nguyên nhân khoa học và công nghệ của Việt Nam so với một số nước còn lạc hậu, vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đòi hỏi cần phải chú trọng hơn công tác thực hành, gắn liền với thực tiễn của đất nước và xu hướng phát triển nghề nghiệp của thế giới.
Cùng với việc coi trọng đổi mới lĩnh vực giáo dục, đào tạo để xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp CNH, HĐH, Đảng ta đã chỉ ra bước đột phá đó là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với chủ trương: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao”, “ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài”.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần phải phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao; xây dựng các cơ chế, chính sách và giải pháp để đào tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi ngành nghề do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động của hội nhập kinh tế
- quốc tế, cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực gắn với đảm bảo các quyền con người, an ninh con người, an sinh xã hội, tạo mọi điều kiện để người lao động phát huy năng lực và trí tuệ của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH. Trước yêu cầu hội nhập quốc tế, phát triển bền vững và CNH, HĐH, Đảng ta đã chú trọng nhấn mạnh vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của con người, an ninh con người theo các quy định trong Hiến pháp năm 2013. Tại Đại hội XIII của Đảng, lần đầu tiên khái niệm “an ninh con người” được đề cập đến với tư cách vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định chính trị xã hội và xây dựng, phát triển đất nước bền vững. Đại hội lần thứ XIII đặt vấn đề “thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”, "đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội”, “xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, “bảo vệ quyền con người, quyền công dân”, “quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”. Đảm bảo nguyên tắc con người được làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân, phát huy tính tích cực, sáng tạo trong lao động, sản xuất; tạo cơ hội thuận lợi cho tất cả mọi người có thể cống hiến trí tuệ, tài năng của mình cho xã hội.
Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực cần gắn với đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội. Để nguồn nhân lực phát triển toàn diện, đủ khả năng đáp ứng quá trình đẩy mạnh nghiệp CNH, HĐH đất nước, cần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội qua đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Để nâng cao đời sống vật chất cho người lao động đòi hỏi phải có chính sách phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, lấy con người là động lực, vì sự phát triển con người và phát huy được tiềm năng sáng tạo của con người; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội.
Thứ sáu, phát triển nguồn nhân gắn với việc sử dụng có hiệu lực lượng lao động ở “giai đoạn vàng”, chủ động “thích ứng với xu hướng già hóa dân số, tạo môi trường và điều kiện để phát triển thị trường lao động đồng bộ, hiện đại, linh hoạt, thống nhất, hội nhập và hiệu quả”. Sử dụng hiệu quả lợi thế về tuổi tác của lực lượng lao động, tạo thêm việc làm sẽ góp phần phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Phát triển nhân lực có kỹ năng nghề đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất lao động và tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay.
Thứ bảy, đẩy mạnh công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất cho người lao động và mọi người dân, xác định sự nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt”; “tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người”. Ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội bảo đảm thể chất cho nguồn nhân lực của đất nước, vừa hướng tới mục tiêu phát triển con người Việt Nam trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
ThS, NCS. Trần Minh Nhật Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh