Do đó, trong giai đoạn 2021 - 2030, các mục tiêu căn bản cần tiếp tục thực hiện như: Nâng cao nhận thức về văn hóa, nhìn nhận văn hóa trong sự đa dạng, công bằng, văn hóa có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) giới thiệu bài viết: “Phát triển văn hóa trở thành nguồn lực nội sinh cho quá trình phát triển đất nước” của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thị Phương Châm, Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Sau đây là nội dung bài viết:
Văn hóa bao gồm tổng thể các yếu tố văn hóa vật thể, phi vật thể, các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo, môi trường văn hóa, hoạt động văn hóa, sự hưởng thụ văn hóa... không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc đem lại sự phát triển kinh tế bao trùm, giúp xóa đói, giảm nghèo, tạo ra sự thịnh vượng về mặt kinh tế mà còn là nền tảng gắn kết xã hội, bảo đảm sự phát triển bình đẳng, nhân văn, có bản sắc và bền vững. Do đó, trong bối cảnh hiện nay, cần xác định rõ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn hóa giai đoạn 2021 - 2030 để văn hóa thực sự trở thành nguồn lực nội sinh cho quá trình phát triển đất nước.
Phát triển văn hóa - một khái niệm khoa học mới phổ biến
Từ năm 1986, trong tinh thần đổi mới chung của toàn xã hội, Đảng đã xác định văn hóa là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, thể hiện trình độ phát triển chung của đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống. Quan điểm này đưa đến nhận thức rõ nét về sự gắn bó mật thiết của văn hóa với mọi mặt đời sống và sự phát triển của văn hóa là thước đo sự phát triển chung của đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Hàm nghĩa phát triển văn hóa ở đây được thể hiện rõ hơn, phát triển nền văn hóa tiên tiến vừa tiếp thu được tinh hoa văn hóa thế giới, vừa giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” nhấn mạnh, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Đại hội XII của Đảng cũng nhấn mạnh quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước; khẳng định cần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Phát triển văn hóa là thúc đẩy sức mạnh nội sinh, đưa văn hóa vào trung tâm của quá trình phát triển phù hợp với bối cảnh mới, văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trên tinh thần đó, hiện nay khái niệm phát triển văn hóa đã trở nên phổ biến với cách hiểu rộng hơn và những ý nghĩa sâu sắc hơn. Phát triển văn hóa với ý nghĩa hướng đến sự phát triển toàn diện. Nếu phát triển kinh tế mà bỏ qua văn hóa sẽ dẫn đến sự mất ổn định, thậm chí là khủng hoảng xã hội. Chính vì vậy, sự gắn kết văn hóa với phát triển kinh tế sẽ đưa đến sự phát triển đa chiều, toàn diện và bền vững. Không thể có sự phát triển xã hội đúng nghĩa nếu không có phát triển văn hóa và phát triển vì mục tiêu văn hóa.
Theo ý kiến nhiều chuyên gia lĩnh vực văn hóa học, phát triển văn hóa là một nhiệm vụ chiến lược lớn hướng đến các mục tiêu căn bản là phát triển xã hội. Do đó, trong giai đoạn 2021 - 2030, các mục tiêu căn bản cần tiếp tục thực hiện như: Nâng cao nhận thức về văn hóa, nhìn nhận văn hóa trong sự đa dạng, công bằng, văn hóa có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nêu cao tinh thần phát triển từ văn hóa, vì mục tiêu văn hóa và đưa tinh thần đó thấm nhuần vào trong các thực hành xã hội và các chính sách. Kế thừa và phát huy giá trị văn hóa của các tộc người và vận hành các giá trị văn hóa đó để trở thành nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế, chính trị, ngoại giao cho đất nước.
Cùng với đó, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới; xây dựng nền văn hóa vừa hội nhập tốt với thế giới, vừa đề cao được bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng nền văn hóa tiên tiến trên nền tảng vững chắc của văn hóa truyền thống 54 dân tộc và lòng tự hào về văn hóa các dân tộc trên đất nước Việt Nam.
Ngoài ra, cần khai thác tối đa nguồn lực văn hóa trong phát triển. Nguồn lực văn hóa rất đa dạng như các di tích khảo cổ học, các đi tích lịch sử, văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo, các quần thể kiến trúc văn hóa, hệ thống các bảo tàng, hệ thống các cảnh quan văn hóa đặc trưng, các loại hình nhà truyền thống, lễ hội, phong tục, tập quán, ẩm thực, trang phục, các sinh hoạt nghệ thuật, đời sống văn hóa làng, bản, thôn,…các loại hình tri thức dân gian,... của 54 tộc người trên cả nước. Các ngành, nhất là ngành văn hóa cần xác định đúng và đưa nguồn lực này vận hành linh hoạt trong các chiến lược phát triển chung và chiến lược phát triển cụ thể của từng lĩnh vực, như du lịch văn hóa, ngoại giao văn hóa,...
Nhìn nhận đúng vai trò của sự đa dạng văn hóa, coi đa dạng văn hóa là nguồn lực quan trọng trong phát triển, là mạch nguồn giúp các tộc người có được bản lĩnh và sự chủ động trong bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa trong quá trình giao lưu, hội nhập, tiếp biến văn hóa hiện nay.
Theo đó, cần đẩy mạnh nghiên cứu chuyên sâu, nghiêm túc bài bản trên cả phương diện lý luận và thực tiễn văn hóa. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với ngành nghiên cứu văn hóa, quản lý văn hóa trong việc bảo đảm mỗi liên kết hiệu quả giữa kết quả nghiên cứu cơ bản và việc tư vấn chính sách. Chuyển hóa tốt nhất các kết quả nghiên cứu thành các chính sách, chương trình hành động phù hợp và hiệu quả. Nghiên cứu cần đi trước một bước để tạo ra các tiền đề lý luận và thực tiễn cho việc triển khai các công tác văn hóa. Đầu tư hiệu quả và thường xuyên hơn cho nghiên cứu cơ bản, khuyến khích những nghiên cứu phản biện chính sách một cách khách quan và thẳng thắn, chỉ ra những nút thắt, những điểm nghẽn cần tháo gỡ để các chính sách văn hóa đi vào cuộc sống. Đầu tư thích đáng hơn cho công tác đào tạo đội ngũ các nhà nghiên cứu văn hóa, tạo ra đội ngũ có chuyên môn nghiệp vụ cao trong nghiên cứu, sống được bằng nghề và tâm huyết với nghề. Nghiên cứu, tiếp thu và ứng dụng các lý thuyết nghiên cứu văn hóa, các kinh nghiệm quản lý văn hóa trên thế giới vào thực tế Việt Nam, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Bên cạnh đó, ưu tiên tối đa nguồn lực để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng tốt nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển đất nước thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, kiên định lập trường chính trị, tư tưởng, có trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo tốt, có trách nhiệm, tuân thủ pháp luật, có lòng yêu nước, tự hào dân tộc, có tính nhân văn, lối sống văn hóa, khoan dung.
Đồng thời, tiếp tục xây dựng văn hóa trong kinh tế và chính trị, đầu tư cho văn hóa ngang hàng cho kinh tế, đi sâu vào từng quá trình sản xuất, từng sản phẩm kinh tế. Văn hóa phải thành yếu tố bên trong giúp định vị cơ cấu và vận hành hệ thống chính trị.
Ngoài ra, xây dựng văn hóa trở thành hệ điều tiết để góp phần ổn định xã hội; tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh từ trong gia đình, cộng đồng đến ngoài xã hội, trong đó mỗi cá nhân ý thức được về hành vi của mình luôn nằm trong những ràng buộc về đạo đức, nhân cách và trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. Tăng cường sức mạnh của hệ điều tiết này bằng những chuẩn mực xã hội, dư luận cộng đồng do chính người dân xây dựng, duy trì và thực hiện thường xuyên. Một xã hội được điều tiết bởi văn hóa chắc chắn là một xã hội hài hòa và phát triển toàn diện.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa và thực hiện văn hóa pháp luật trong toàn xã hội, đưa các hoạt động văn hóa đi vào chiều sâu, chú ý đến tính hiệu quả, tránh hình thức, bề nổi. Cần xây dựng văn hóa pháp luật và đưa văn hóa pháp luật thấm sâu vào lối sống, nếp suy nghĩ và hành vi của mỗi người dân, bảo đảm mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, vì vậy chính những cơ quan làm ra luật, và những người thực thi pháp luật cần thực hiện tốt văn hóa pháp luật.
Nâng tầm hội nhập quốc tế về văn hóa, vừa tiếp nhận được tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại, giữ gìn và làm giàu bản sắc văn hóa. Xác định bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở cốt lời bảo đảm cho sự giao lưu văn hóa và hội nhập quốc tế được bền vững và không bị hòa tan. Xây dựng và hoàn thiện thị trường văn hóa lành mạnh, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp hóa trong phát triển nguồn lực văn hóa.
Phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
Để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới, trước hết cần rèn luyện bản lĩnh văn hóa trên cơ sở thấm nhuần các giá trị văn hóa truyền thống và bản sắc văn hóa, chủ động tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu thêm văn hóa Việt Nam, hạn chế tối đa những mặt trái của quá trình hội nhập quốc tế về văn hóa. Nhìn nhận đa chiều và chính xác để có các giải pháp thích hợp, hiệu quả trong việc phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.
Đồng thời, khắc phục cách nhìn nhận văn hóa một chiều, đứng yên và tạo dựng giá trị theo khuôn mẫu định sẵn mà thay vào đó cần nhìn nhận đúng đặc tính luôn vận động, biến đổi và linh hoạt của văn hóa cũng như sự gắn kết chẽ giữa văn hóa với bối cảnh, điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội. Từ đó, nhìn nhận rõ bất cập, chủ quan, áp đặt và những hệ lụy không mong muốn khi định hình các giá trị văn hóa theo khuôn mẫu cứng nhắc. Giữ gìn, duy trì và làm giàu bản sắc văn hóa của tất cả các tộc người trên cả nước, không phân biệt là dân tộc đa số hay thiểu số, dân tộc thiểu số có số dân đông hay số dân ít.
Cùng với đó, cần nhìn nhận rõ vai trò điều tiết của văn hóa trong xã hội, nâng cao chất lượng hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào văn hóa. Phát huy các giá trị tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng, khuyến khích các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng gắn bó với dân tộc, hướng thiện. Bảo vệ và phát huy những giá trị của tri thức dân gian, nhận diện giá trị, bảo vệ và vận hành những tri thức này một cách hợp lý, chắc chắn sẽ mang lại những hiệu quả to lớn cho việc xây dựng môi trường văn hóa. Gia tăng kinh phí đầu tư cho văn hóa nói chung và cho các hoạt động văn hóa nói riêng; chăm lo quyền lợi và năng lực sáng của các văn nghệ sỹ, trí thức và các nghệ nhân. Coi trọng và đầu tư đúng mức cho các hoạt động vảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể.
Nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đã ưu tiên hàng đầu cho phát triển kinh tế để rồi phải trả giá quá đắt về văn hóa và môi trường, vì vậy, cần phát triển đồng bộ hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa, kinh tế và văn hóa, nâng cao hàm lượng văn hóa trong các sản phẩm kinh tế.
Thực tế hiện nay, nguồn thu từ du lịch văn hóa, du lịch tâm linh, các dân tộc Việt Nam, đẩy mạnh công tác tôn giáo từ thực hành tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội, từ các loại hình dịch vụ văn hóa ngày càng tăng đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế. Song nhìn tổng thể, việc khai thác nguồn lực văn hóa ở nước ta vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Do đó, cần có cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả phát huy nguồn lực văn hóa nước ta hiện nay. Nhận diện giá trị, bảo vệ và vận hành những tri thức này một cách hợp lý chắc chắn sẽ mang lại những hiệu quả to lớn cho việc xây dựng môi trường văn hóa.
PGS.TS Nguyễn Thị Phương Châm
Link nội dung: https://nguonluc.com.vn/phat-trien-van-hoa-tro-thanh-nguon-luc-noi-sinh-cho-qua-trinh-phat-trien-dat-nuoc-a1644.html