Trở thành thần đồng nhờ tự học
Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898), là nhà bác học, nhà văn, nhà ngoại giao, nhà giáo dục và nhà cải cách ngôn ngữ Việt Nam. Ông được coi là người tiên phong trong việc sử dụng và phổ biến chữ Quốc ngữ, đồng thời có nhiều tác phẩm quý giá về lịch sử, địa lý, văn học, từ điển và dịch thuật.
Ông cũng là 1 trong 18 nhà bác học thế giới về ngôn ngữ của thế kỷ 19, được ghi tên vào Bách khoa Tự điển Larousse. Ở tuổi 25, Trương Vĩnh Ký đã thông thạo nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á cũng như các ngôn ngữ khác trên thế giới, như các thứ tiếng: Campuchia, Thái Lan, Lào, Malaysia, Myanmar, Chăm, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hi Lạp, Latin…
Dù điều kiện học tập còn nhiều hạn chế nhưng Trương Vĩnh Ký có thể thuộc làu Tam Kinh từ khi lên 3 tuổi, 4 tuổi ông học viết, 5 tuổi (1842) đã cắp sách đến trường học chữ Nho, chữ Nôm với thầy giáo. Sau vài ba năm, ông thông suốt Minh Tâm Bửu Giám, đọc Tứ thư, Ngũ kinh, thuộc nhiều thơ Đường, thơ Tống... Theo lời những người thân hậu bối, lúc nhỏ ông còn thuộc nhớ nhiều bài ca dao dài mà người lớn không biết. Cậu bé Ký đọc sách mà người cha mang từ miền Trung vào như Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Minh Đạo Gia Huấn, thơ Đường, thơ Tống...
Năm 1846, Trương Vĩnh Ký được gửi cho 1 người Pháp tên Borelle (tên Việt Nam là Thừa Hòa) ở Cái Nhum (Vĩnh Long) để học tiếng Latin và tiếng Pháp. Sau đó, ông Thừa Hòa phải đi xa nên nhờ một người Pháp tên là Bouilleaux (tên Việt Nam là Cố Long) lo hộ việc nuôi dưỡng và học hành của cậu Ký. Năm Vĩnh Ký 11 tuổi (1848), ông được Cố Long gửi đến học tại Pinhalu (Phnom Penh, Campuchia). Tại đây, ông được cùng hơn 20 học sinh khác đến từ nhiều nước khác nhau ở Đông Nam Á. Cũng tại đây, ông đã thông thạo hầu hết các thứ tiếng của các bạn học cùng như: Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ciampois (Chăm)…
Ngoài việc học từ các bạn, ông còn tự học ở sách, từ điển trong thư viện của nhà trường. Các nhà ngôn ngữ học đương thời cho rằng Trương Vĩnh Ký đã tự tìm ra những quy luật ngữ pháp giống nhau, khác nhau của các tiếng nước ngoài để học nhanh và dễ dàng.
Năm 14 tuổi (1851), Trương Vĩnh Ký tiếp tục được gửi vào trường ở Poulo Penang (một hòn đảo nhỏ trên vùng Nam Dương, thuộc Malaysia). Trong khoảng thời gian 7 năm theo học tại đây, ông học chuyên ngữ Latin và Hi Lạp. Ngoài ra, ông còn học nâng cao các thứ tiếng khác như Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha, Malaysia, Nhật, Hi Lạp, Thái Lan, Pháp, Ý…Trương Vĩnh Ký tự học tiếng Nhật, Ấn bằng cách cắt các báo cũ, rồi dùng phương pháp đối chiếu, diễn dịch mà tìm ra các mẹo luật văn phạm.
Viết sách dạy ngoại ngữ nổi tiếng vùng ASEAN
Với sự thông thạo và vốn kiến thức khủng về những quy luật học ngoại ngữ của các quốc gia trong khu vực, Trương Vĩnh Ký đã truyền kinh nghiệm của mình qua việc xuất bản sách. Vào cuối thập niên 1880, ông đã xuất bản sách dạy tiếng Thái Lan, Campuchia.
Đến năm 1892, ông soạn được ba bộ sách dạy tiếng Miến Điện (tức Myanmar ngày nay): Cours de langue birmane, Vocabulaire français-birman, Guide de la conversation birman[e]-français. Từ năm 1893, ông tiếp tục xuất bản sách dạy tiếng Lào, Malay, Tamoule (Tamil?), Ciampois (Chàm).
Émile Littré, nhà văn Pháp, năm 1862 đã viết: “Trên trái đất này rất khó tìm ra người thứ hai say mê ngôn ngữ như Trương Vĩnh Ký. Gặp người Anh, Trương Vĩnh Ký nói bằng tiếng Anh nhuần nhị như người Luân Đôn. Tiếp xúc với người Ý Đại Lợi, người Y Pha Nho, người Bồ Đào Nha... hay người Nhựt Bổn, Mã Lai, Xiêm... Trương Vĩnh Ký đều nói đúng theo âm luật của kinh đô nước đó... Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh ông như một nhà bác ngữ học vào bậc nhất của thời nay”.
Năm 1874, Trương Vĩnh Ký đã được thế giới bình chọn là “nhà bác học về ngôn ngữ”, nằm trong danh sách 18 nhà bác học thế giới của thế kỷ XIX, được ghi tên vào các danh nhân thế giới trong Tự điển Larousse.
Cuối những năm 1880, Trương Vĩnh Ký đã xuất bản sách dạy tiếng Thái Lan, Campuchia. Đến năm 1892, ông soạn được ba bộ sách dạy tiếng Miến Điện (tức Myanmar ngày nay): Cours de langue birmane, Vocabulaire français-birman, Guide de la conversation birman[e]-français. Từ năm 1893, ông tiếp tục xuất bản sách dạy tiếng Lào, Malay, Tamoule (Tamil?), Ciampois (Chàm).
Ông cũng là người có công trong việc xây dựng và phát triển giáo dục, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Ông là tổ chức, quản lý tờ báo viết chữ Quốc ngữ đầu tiên mang tên là Gia Định báo (1865-1910). Trương Vĩnh Ký cũng là người đề xướng việc thành lập Học viện Đông Dương (École française d'Extrême-Orient) năm 1898. Ông đã viết hơn 100 tác phẩm về lịch sử, địa lý, văn học, từ điển và dịch thuật, bằng nhiều thứ tiếng như tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng La Tinh và tiếng Campuchia.
Dù đã đi xa hơn một thế kỷ nhưng tên tuổi của vị thiên tài ngôn ngữ vẫn còn được lưu truyền đến tận ngày nay. Để tưởng nhớ về những đóng góp to lớn của Trương Vĩnh Ký, nhiều nơi đã đặt tên theo ông như: Đường Trương Vĩnh Ký ở Sài Gòn; Trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký ở Sài Gòn; Trường Tiểu học, THCS và THPT Vĩnh Ký ở quận Tân Bình, TP HCM; Bảo tàng Trương Vĩnh Ký ở Bến Tre...
Thùy Dung