Là lớp người tạo nên gương mặt tinh thần của dân tộc, họ chiếm lĩnh các vị thế văn hóa, để ngoài tư cách là ông quan, họ còn là người trí thức, là nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà văn, nhà thơ. Những sáng tạo của họ làm nên di sản văn hóa, tinh thần của dân tộc - như một dòng chảy liên tục, xuyên suốt, qua những tác phẩm lớn có giá trị về nhận thức, về đạo lý, về xây dựng tâm hồn và tình cảm con người và in đậm dấu ấn thời đại, làm nên lịch sử văn chương - học thuật dân tộc. Tôi dùng hai khái niệm văn chương - học thuật để nói đến một đặc trưng bao trùm những tác phẩm lớn như thế trong lịch sử, kể từ 4 câu thơ “thần”: “Nam quốc sơn hà nam đế cư…” đời Lý, qua Hịch tướng sĩ đời Trần, đến Bình Ngô đại cáo đời Lê - những áng văn với nội dung hàm chứa cả ba phương diện: văn, sử, triết làm nên đặc trưng nguyên hợp của văn chương dân tộc kể từ đầu nguồn của nó.
Nhưng dẫu mang đặc trưng nguyên hợp, dẫu chiếm lĩnh những đỉnh cao các giá trị tinh thần của dân tộc, bởi các tác giả của nó vừa là danh nhân lịch sử vừa là danh nhân văn hóa như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi... cho đến Hồ Chí Minh - tác giả Tuyên ngôn độc lập, thì lịch sử văn chương - học thuật dân tộc vẫn dần dà có sự hình thành bên cạnh thơ và văn là những lĩnh vực được chuyên sâu thành các khoa học chuyên biệt, với đối tượng được khoanh vùng và xác định, mà lĩnh vực đầu tiên có lẽ là sử học. Sử học - đó là khoa học, theo tôi hiểu, được hình thành và có thành tựu lớn, và sớm nhất ở ta, với những tên sách có giá trị khởi động và đặt nền móng, trong hai thế kỷ XIV và XV - như Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu (1230-1322), Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên (?-?), Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên (1479-?)...
Hiện tượng trên cho thấy ý thức về chủ quyền của cha ông ta, với sự khẳng định: Việt Nam là một dân tộc có lịch sử; và ý thức về việc chép sử đã rất sớm hình thành. Qua các bộ sử, kể từ Lê Văn Hưu, Ngô Sỹ Liên... thế kỷ XIV, XV đến các bộ sử thời Nguyễn thế kỷ XIX, trong đó có tác giả Cao Xuân Dục với các tác phẩm của mình đã ghi nhận và khẳng định hành trình dân tộc qua lịch sử các triều đại.
Cùng với các bộ sử chính thống còn là các bộ sử ca, dùng thơ văn chuyên chở sử, để cho ý thức về dân tộc được thấm nhuần rộng rãi, sâu sắc trong sinh hoạt tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, như Thiên Nam minh giám 838 câu, Thiên Nam ngữ lục 8136 câu, Đại Nam quốc sử diễn ca 2000 câu... Những bộ sử ca này - kéo dài cho đến Lịch sử nước ta của Hồ Chí Minh - 208 câu - năm 1941 - gần như rất dễ dàng in sâu vào tâm thức của nhân dân, qua nhiều đời...
Từ tình hình trên, cần một đối sánh, để mà buồn và đau cho tình trạng khoa học lịch sử bị coi nhẹ, và ý thức về lịch sử bị nhạt nhòa, quên lãng trong các thế hệ trẻ hôm nay ở học đường, qua các mùa thi cử.
Sau khoa học lịch sử là sự hình thành và phát triển các khoa học khác, thuộc các lĩnh vực giáo dục, luân lý, nhân văn, xã hội và tự nhiên... qua đóng góp của những đầu óc bách khoa thế kỷ XVIII như Lê Hữu Trác (1720-1790) với Y tông tâm lĩnh, Lê Quý Đôn (1726-1784) với Vân Đài loại ngữ; và thế kỷ XIX như Phan Huy Chú (1782-1840) với Lịch triều hiến chương loại chí...
Vậy là trong lịch sử văn hóa và văn học dân tộc có sự hình thành một lịch sử văn chương- học thuật, vừa trong xen cài, vừa trong phân hóa để có những bộ môn riêng, qua đó bên cạnh lịch sử thơ văn là lịch sử học thuật, xuất hiện tuy có muộn hơn, nhưng vẫn để lại những tác phẩm lớn - có giá trị khai sáng - kể từ đầu nguồn cho đến giữa thế kỷ XIX - với những đỉnh cao, trong đó hai gương mặt sáng giá nhất gần như xuất hiện cùng thời - đó là Nguyễn Du (1765-1820) và Phan Huy Chú (1782-1840).
Cao Xuân Dục có bút hiệu Long Cương, quê làng Thịnh Mỹ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Cố nhiên, như số lớn các nhà Nho trong lịch sử, Cao Xuân Dục cũng sáng tác nhiều thơ văn - viết cho riêng mình, cho người thân, và cho bạn bè, rồi được truyền tụng trong một bộ phận công chúng nhất định. Nhưng ưu thế nổi trội của ông vẫn là các công trình về sử, về văn hóa, giáo dục, khoa học... Do vậy, trước hết tôi muốn đặt ông vào vị trí của một người tiếp tục khu vực học thuật, có một truyền thống dài từ Chu Văn An, Lê Văn Hưu... đến Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú... Sinh năm 1842 - hai năm sau ngày Phan Huy Chú qua đời; và mất năm 1923 - thời Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh hết vai trò lịch sử của mình, tôi muốn nhìn Cao Xuân Dục trong sự tiếp tục một truyền thống học thuật có chiều dài cùng đồng hành với lịch sử thơ văn nhiều trăm năm. Nhưng là tiếp tục trong một bối cảnh mới: cuộc xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây đưa đến tình thế mất nước; một hệ quả mất nước gần như là tất yếu, khó tránh trong thời đại chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, thời đại “các dân tộc nông dân phải phụ thuộc vào các dân tộc tư sản”, thời đại phương Tây thống trị phương Đông.
Trên những đặc điểm mới ấy của thời đại, dân tộc Việt Nam nửa thế kỷ XIX buộc phải đứng trước một bước ngoặt lịch sử thật dữ dội; phải đối mặt với một kẻ thù mới với dã tâm rất lớn, và tiềm lực kinh tế và quân sự là không thể so sánh giữa “hỏa mai” và “con cúi”, với thuốc súng và chiến thuyền. Trong bối cảnh ấy cả dân tộc chỉ còn duy nhất một cuộc chọn lựa: chiến hoặc hòa; và sự phân hóa của dân tộc nói chung và của kẻ sĩ nói riêng cũng là trên sự chọn lựa ấy. Bất chấp sự bối rối và nhu nhược của triều đình, cả dân tộc đã chọn con đường chiến - và như vậy, lẽ tự nhiên đưa tới ưu thế và sự bao trùm của một phong trào văn thơ yêu nước lan rộng, không lúc nào ngừng, từ Nam ra Bắc, với những tên tuổi lớn như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Thông, Thủ khoa Huân, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Thiện Thuật...
(Còn tiếp)
(1) 1842 - 1923
GS Phong Lê
Link nội dung: https://nguonluc.com.vn/cao-xuan-duc-1-mot-mau-hinh-tri-thuc-lon-trong-mot-chuyen-dong-lich-su-tu-trung-dai-sang-hien-dai-a11181.html